Thứ Năm, 31 tháng 5, 2018

20180531. QUANH DỰ ÁN LUẬT ĐẶC KHU KINH TẾ

ĐIỂM BÁO MẠNG
DỰ ÁN LUẬT VỀ BA ĐẶC KHU VÂN ĐỒN, VĂN PHONG VÀ PHÚ QUỐC LÀ PHẢN ÁNH CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP KHÔNG CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

VŨ QUANG VIỆT/ viet-studies 30-5-2018

Kết quả hình ảnh cho vân đồn quảng ninh

Hiện nay Quốc hội đang bàn về dự án Luật về ba đặc khu Vân Đồn, Văn Phong và Phú Quốc, còn tôi lại đang viết bài đánh giá về chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam mà tôi tạm gọi là chính sách phát triển không chiến lược. Vì thấy Quốc hội hiện nay có vẻ muốn thông qua nên tôi thấy cần đưa ra vài kết quả có liên quan trong bài đang viết, hy vọng Quốc hội tạm dừng việc thông qua để nghiên cứu và trao đổi thêm về mặt lợi hại, ít nhất là về mặt kinh tế. Đơn giản là để đưa đến quyết định nghiêm chỉnh, bất cứ một dự án luật nào về kinh tế, cơ quan đề xuất mà ở đây là Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng phải trình bày cho dân đánh giá định lượng lợi và hại về mặt kinh tế. Điều này không thấy có.
Dự luật trên không chỉ là cho phép nước ngoài thuê đất 99 năm, với quyền bán lại và giao thừa kế, có thể được giảm tiền thuê đất, giảm thuế thu nhập rất nhiều năm, lại cho phép người Việt chơi bạc và trao quyền quá lớn cho chủ tịch đặc khu như vua con, và lại giao đặc khu quyền quyết đinh chi vượt thu 70%, có thể đưa đến tình trạng mất khả năng trả nợ. Đây là một số điều tóm tắt từ dự luật trên:
1. Điều 33. Chủ tịch đặc khu được cho người nước ngoài thuê đất 70 năm và đặc biệt 99 năm nếu được Thủ tướng đồng ý. Vậy luật này vượt luật đất đai (50 năm) và cũng cho phép thủ tướng vượt luật đất đai. Điều 126 của luật đất đai hiện nay cho phép trường hợp đặc biệt tăng lên 70 năm: "Đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất không quá 70 năm." 
  1. Điều 43. Thuế được ưu đãi. Vừa thấp (10%), lại được miễn thuế 4 năm, giảm thuế 50% trong 9 năm tiếp.  Chỉ có đầu tư bất động sản là chịu thuế 17%. Cũng không có thuế nhập khẩu hàng hóa đầu tư. Điều 40 miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm và giảm 50% sau đó.   Vậy thì chính quyền đào đâu ra tiền?
  2. Điều 39. Đặc khu được quyền bội chi không vượt quá 70% ngân sách thu. Như vậy phải đi vay để chi. Nếu vỡ nợ, ai trách nhiệm? 
  3. Điều 45: Chủ tịch đặc khu được quyền cho miễn thuế thuê đất 30 năm. 
  4. Điều 46: Người nước ngoài được làm việc dưới 90 ngày và cộng dồn 180 ngày một năm không cần giấy phép lao động.
6. Điều 47. Chủ tịch đặc khu được giao rất nhiều quyền: Được ký hợp đồng lao động, tuyển công chức, được  quyết định hệ số tiền lương tăng thêm; ban hành quy chế tiền thưởng thực hiện tại đặc khu và quyền cho miễn thuế nói ở trên. Và theo điều 36 chủ tịch đặc khu được quyền chọn thầu.
7. Điều 53.   Người Việt Nam được phép vào chơi casino tại điểm kinh doanh casino tại đặc khu theo quy định của pháp luật về casino.
8. Điều 56. Chỉ cần bỏ ra 110 tỷ đồng đầu tư (tức là 5 triệu USD) thì được cấp thẻ tạm trú 10 năm.
Ba cái gọi là đặc khu trên khó mà thu hút được bất cứ hình thức công nghệ cao không bẩn nào (vì bẩn có ảnh hưởng tới du lịch) bởi vì nó không nằm trong khu vực có khả năng phát triển tri thức.
Bỏ qua vấn đề chính trị và an ninh, dự luật trên về mặt kinh tế chủ yếu là nhằm phát triển lợi ích của lợi ích địa ốc và đánh bạc trong và ngoài nước. Điều này không khác gì chiến lược thu hút đầu tư có vốn nước ngoài nói chung hiện nay, rất cần được đánh giá lại. 
Tình trạng chung là vì đặt lợi ích nhóm lên đầu, việc chọn lựa đầu tư nước ngoài và quyết định vay nợ nước ngoài đã không dựa trên khả năng ảnh hưởng lan toản, bỏ qua ngay cả  khả năng sinh lợi, thậm chí bất kể khả năng sinh lợi như trường hợp đầu tư vào Bôxit ở Tây Nguyên và nhiều dự án điện than hiệnnay. Cho nên, dù dựa vào đầu tư và vốn nước ngoài như thế, năng suất lao động tính theo GDP trên một lao động tăng thấp, tăng bình quân năm trong thời gian 2000 đén nay chỉ đạt 4.0%.
Tính toán chi tiết hơn cho thấy một hiện tượng kỳ lạ là năng suất lao động trong khu vực công nghiệp tăng bình quân năm những năm qua (2011-2016) ở Việt Nam rất thấp, chỉ đạt 2.9%, thấp hơn cả tốc độ tăng của nông nghiệp và dịch vụ (coi biểu 1).[1]
Biểu 1. Tốc độ tăng năng suất lao động theo năm tính kép

Năng suất ngành (tính theo tăng kép giữ hai năm 2016 và 2010)
·        Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (GTTT trên 1 lao động)
4.3
·        Công nghiệp và xây dựng (GTTT trên 1 lao động)2.9
·        Dịch vụ (GTTT trên 1 lao động)3.1

Năng suất lao động của nền kinh tế (GDP trên 1 lao động) bình quân 2005-2016
4.0

Nguồn: TCTK: GDP, số liệu giá trị tăng thêm theo ngành và lao động.
Chú thích: Năng suất lao động cả nên kinh tế có thể tính bình quân năm từ 2005-2016. Tuy nhiên, không thể tính cho từng hoạt động vì lý do là TCTK chỉ tính giá trị tăng thêm (GTTT) theo giá cơ bản kể từ năm 2010 đến 2016 (đúng theo khuyến nghị quốc tế nhằm tách thuế và bù lỗ sản phẩm, nhằm loại trừ ảnh hưởng của chính sách đến giá trị sản xuất). Tuy nhiên vì số liệu trước 2010 không được điều chỉnh nên không thể so sánh với số liệu trước đó. Chính vì thế nếu so sánh, mà không có hiểu biết về ý niệm dùng trong thống kê kinh tế, ta thấy điều vô lý xảy là năng xuất công nghiệp giảm 16% năm 2010 và dịch vụ giảm 13% cùng năm, chỉ vì thuế sản phẩm năm 2010 bị loại.  Để nghiên cứu năng suất lao động theo chuỗi thời gian dài hơn, TCTK cần tính lại số liệu từ trước năm 2010 theo giá cơ bản.
Với tình trạng trên, do dân số và lực lượng lao động tăng không hơn 1.0% một năm cho đến 2025[2] và sau đó giảm xuống khoảng 0.7%, khả năng tăng GDP bình quân năm sẽ không hơn 5.0% năm nếu như năng suất lao động không tăng cao hơn 4.0% một năm.
Với tốc độ tăng trưởng năng suất lao động công nghiệp hiện nay ở mức 2.9% một năm, thấp hơn mức tăng trong nông nghiệp thì việc chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp thì năng suất lao động tính theo số tuyệt đối sẽ cao hơn, nhưng tốc độ tăng trưởng lại thấp đi.
Việt Nam cần tính lại chiến lược phát triển công nghiệp trong đó cần đặc biêt xem lại chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, mà câu hỏi cần được trả lời khi quyết định: liệu đầu tư đó có sức lan tỏa tạo thêm công nghiệp phù trợ không, có thu hút lao động trí thức và có tay nghề không và cuối cùng có  làm tăng năng suất lao động nói chung không?

[1] Trong một bài viết trên Kinh tế Sài Gòn (2018), tác giả cho rằng mức tăng của GDP và dịch vụ công là cao hơn thực chất ít nhất 0.36% nên năng suất thực con thấp hơn số liệu trong biểu 2 (coi Tăng trưởng GDP: Thống kê cao hơn thực tế). Tuy nhiên ở đây tác giả vẫn dùng thông tin của TCTK.

CẮN RƠM CẮN CỎ LẠY CÁC VỊ ĐBQH: ĐỪNG CHO THUÊ ĐẤT 99 NĂM

FB Nguyễn Ngọc Chu /BVN 30-5-2018

clip_image002
Xem VTV tường thuật các vị ĐBQH bảo vệ ý kiến cho người nước ngoài thuê đất 99 năm mà tê tái.
1. So sánh với ai và ai cho thuê đất 99 năm?
Chúng ta tự ca ngợi mình ưu việt, tươi đẹp. Vậy mà khi so sánh lại toàn viện dẫn thí dụ ở các nước chậm phát triển. Không chịu nhìn đến các nước văn minh làm tấm gương mà vươn lên.
Ai cho thuê đất 99 năm? Là Malaysia, Là Thái Lan… là các nước thuộc khu vực kém phát triển. Không có nước châu Âu châu Mỹ văn minh nào cho thuê đất 99 năm.
2. Chính sách ưu đãi vượt trội?
Một số vị ĐBQH gào lên ưu đãi vượt trội. Chúng ta tươi đẹp mà! Chúng ta cần cù giỏi giang mà! Các vị sáng suốt mà! Sao mình phải hạ thấp thân phận mà ưu đãi vượt trội cho họ? Sao họ không chịu ưu đãi vượt trội cho mình?
Nếu nói đến vượt trội thì 99 năm cũng chỉ là bằng, chưa vượt trội. Sao các vị không cho thuê hẳn lên 199 năm? 499 năm?... 999 năm?
3. Ai được lợi khi cho thuê đất 99 năm?
Chỉ những kẻ đầu cơ đất, đầu cơ dự án để chuyển nhượng là hưởng lợi nhiều nhất.
Đối với những hãng công nghệ lớn, thời hạn thuê đất 99 năm không phải là yêu cầu ưu tiên vượt trội.
4. Việt Nam có thành “hổ” thành “rồng” khi cho thuê đất 99 năm?
Không.
Samsung đầu tư ở Việt Nam bao lâu rồi mà Việt Nam có học chế tạo được con chip nào không? Hay chỉ gia công vỏ và ốc vít?
Thế mà có vị ĐBQH ngủ mơ, kỳ vọng nhờ đặc khu mà Việt Nam có thể được như Hàn Quốc!
5. Việt Nam có thể hùng mạnh mà không cần đặc khu
Đặc khu là cứu cánh của kẻ yếu, không chịu tự mình vươn lên, mà chỉ ngọi chờ vào đầu tư của người khác.
Đặc khu là biện pháp của kẻ chỉ muốn giàu nhanh nhờ dịch vụ, chủ yếu là đánh bạc, buôn bán, du lịch.
Đặc khu là biện pháp trong giai đoạn phát triển ban đầu của các nước có nền kinh tế phát triển thấp, ở thế kỷ trước.
Đặc khu cũng là biện pháp của kẻ toàn trị, vì bị cô lập nên một mặt muốn mở cánh cửa thông thương với các nước bên ngoài, một mặt lại muốn hạn chế ảnh hưởng của bên ngoài vào nội địa toàn trị. Bởi thế nên mới có ràng buộc về không gian và thời gian.
Ở nhiều nước khác, đất không rộng, người không đông, không nhiều tài nguyên, không có đặc khu, vậy mà họ vẫn giàu có, văn minh, hùng cường. Thí dụ như Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch.
Không ảo tưởng như điểm tựa của Archimet, chỉ cần một cơ chế Dân Chủ, thì Việt Nam tự khắc sẽ hùng cường mà không phải hạ thấp mình ưu đãi ai cả.
5. Đại họa lớn nhất của thuê đất 99 năm là gi?
Có vị ĐBQH biện hộ rằng, sau 99 năm, đất đai, tài sản đầu tư ở đặc khu vẫn là của mình, nhà đầu tư không bưng về nhà họ được.
Nhưng các vị quên mất một đại họa là họ, và cháu chắt của họ vĩnh viễn ở lại đây được.
Một thanh niên nước ngoài 20 tuổi sang Việt Nam sinh sống ở đặc khu, lấy vợ để con. 40 tuổi anh ta có cháu. 60 tuổi anh ta có chắt. 80 tuổi anh ta có chút. 100 tuổi anh ta có chít. 119 tuổi, hết thời hạn thuê đất 99 năm, anh ta có chịt. Tổng cộng cả anh ta là 6 thế hệ!
Vân Đồn không phải ở Malaysia. Vân Đồn chỉ cách Trung Quốc không đầy 100 km.
Tất cả 3 đặc khu của Việt Nam, từ Vân Đồn đến Vân Phong qua Phú Quốc, các sòng bạc, các dự án rồi cơ bản sẽ thuộc về người Hoa. Chính phủ Việt Nam sẽ khổng thể có biện pháp nào hữu hiệu để cản trở dòng chảy này khi mở ra các đặc khu kinh tế.
Chỉ mấy năm gần đây, từ các dự án như Boxit, Formosa…, rồi khách du lịch ồ ạt vào Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang… số lượng người Trung Quốc sang Việt Nam sinh sống đang ở mức sợ hãi. Với việc mở cửa biên giới cho cả xe qua, thì người Trung Quốc sẽ kéo sang Việt Nam kìn kịt. Chỉ mươi năm nữa, hàng chục vạn người Trung Quốc sẽ định cư trù mật khắp Việt Nam. Nếu không kiểm soát, sau 50 năm số lượng người gốc Hoa ở Việt Nam có thể vượt qua con số một chục triệu người!
Chúng ta có thể để lại cho cháu con nhiều khó khăn, từ đói nghèo cho đến nợ chồng chất. Mọi khó khăn trong thừa kế để lại của chúng ta, cháu con chúng ta rồi cuối cùng cũng vượt qua được. Mọi tai họa trong thừa kế để lại của chúng ta, cháu con chúng ta rồi cuối cùng cũng sẽ loại trừ được. Riêng đại họa cấy người nhiều đời, cháu con chúng ta sẽ không bao giờ có thể loại trừ được.
Cho nên, đại đa số người dân Việt Nam phản đối chính sách cho thuê đất 99 năm mà không cần phải nghe các vị ĐBQH hao tâm tổn lực trình bày lợi ích về đặc khu kinh tế.
Các vị ĐBQH có dám hỏi ý kiến toàn dân Việt Nam về thuê đất 99 năm không?
Các vị không dám. Vì kết quả sẽ chứng minh là các vị không đại diện cho dân.
Xin các vị ĐBQH đừng mang lại đại họa cho con cháu.
N.N.C.
Nguồn: FB Nguyễn Ngọc Chu
Lo ngại Vân Đồn thành Crimea thứ hai nếu giao đất 99 năm 

LO NGẠI VÂN ĐỒN THÀNH CRIMEA THỨ HAI NẾU GIAO ĐẤT 99 NĂM

VOA Tiếng Việt /BVN 30-5-2018

clip_image002
Nhiều đại biểu quốc hội Việt Nam đề nghị chưa thông qua luật về đặc khu kinh tế
Nhiều người ở Việt Nam gần một tuần nay lên tiếng kêu gọi quốc hội cân nhắc thêm, đừng vội thông qua luật về đặc khu kinh tế, trong đó có điều khoản giao đất cho nhà đầu tư nước ngoài tới gần 1 thế kỷ.
Đã có người cảnh báo một điều luật như vậy có thể dẫn đến nguy cơ Vân Đồn, một đảo của Việt Nam gần Trung Quốc, bị biến thành một Crimea thứ hai.
Các ý kiến đó của nhiều thành phần nhân dân đã nổi lên sau hai phiên thảo luận của quốc hội hôm 23 và 28/5 về dự luật do chính phủ trình, có tên đầy đủ là Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc.

Chính phủ Việt Nam dự định lập 3 đặc khu tại các tỉnh Quảng Ninh ở miền bắc, Khánh Hòa ở miền trung và Kiên Giang ở miền nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, tạo đột phá về phát triển kinh tế.
Báo chí trong nước dẫn lại thông tin từ chính phủ cho hay dự luật đặc khu chứa đựng các chính sách đặc biệt về nhiều ưu đãi thuế, thủ tục hành chính thông thoáng và cho thuê đất dài hạn hơn.
Một số quan chức chính phủ nói với Quốc hội và báo chí rằng việc lập 3 đặc khu là một bước “thử nghiệm” các thể chế, chính sách mới ở Việt Nam, với kỳ vọng thu hút hàng tỉ đôla từ các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, du lịch, và kinh doanh sòng bạc (casino).
Giới hoạch định chính sách bày tỏ hy vọng rằng các đặc khu sẽ có mức thịnh vượng vượt trội nhờ các ưu đãi, từ đó tạo “tác động lan tỏa, tích cực” tới sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam nói chung, theo các báo.
Với thời hạn đó quá dài, sợ rằng rất nhiều người Trung Quốc, thông qua các nhà đầu tư chẳng hạn, họ sẽ biến trở thành lãnh thổ của họ trên đất Việt Nam. Đấy là một tâm lý do hậu quả một quá trình thực hiện các chính sách của Trung Quốc trong vấn đề biên giới, lãnh thổ, đặc biệt trên Biển Đông - Tiến sĩ Trần Công Trục
Tại Quốc hội, điều khoản về giao đất 99 năm trong dự luật đặc khu đã gây nhiều lo lắng cho các đại biểu.
Các đại biểu Dương Trung Quốc, Trần Hoàng Ngân, Trương Trọng Nghĩa, và Lê Thu Hà được báo chí trích lời đưa ra quan điểm rằng không nên cho thuê đất đến gần 1 thế kỷ, thậm chí nên bỏ điều khoản này ra khỏi dự luật.
Ông Dương Trung Quốc lưu ý đến yếu tố địa chính trị của đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, và cảnh báo “không cẩn thận nó sẽ là nơi để [Trung Quốc] di dân thôi”, theo tin đăng trên VTC News và báo Đất Việt.
clip_image004
Cảng Cái Rồng, đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, nhìn từ trên cao
Tuy các đặc khu kinh tế với ưu đãi về đất đai không phải là một mô hình mới, với thực tế là đã nhiều nước trên thế giới thực hiện các đại dự án kiểu như vậy, song tính nhạy cảm về vấn đề này ở Việt Nam có phần nguyên nhân ở những nghi ngại của người Việt về những động thái của Trung Quốc trong cả quá khứ lẫn hiện tại. Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, giải thích với VOA:
“Với thời hạn đó quá dài, sợ rằng rất nhiều người Trung Quốc, thông qua các nhà đầu tư chẳng hạn, họ sẽ biến trở thành lãnh thổ của họ trên đất Việt Nam. Đấy là một tâm lý do hậu quả một quá trình thực hiện các chính sách của Trung Quốc trong vấn đề biên giới, lãnh thổ, đặc biệt trên Biển Đông”.
Sau khi các ý kiến của các đại biểu quốc hội được báo chí đăng tải, trong nhiều ngày liên tiếp, đông đảo dư luận Việt Nam, bao gồm các thành phần đa dạng như các nhà báo kỳ cựu, giảng viên đại học, quan chức về hưu và các nhà hoạt động, cũng bày tỏ ý kiến trên mạng xã hội phản đối dự thảo về giao đất lâu gấp rưỡi thời hạn theo luật hiện hành.
Trong một bài đăng trên Facebook cá nhân được nhiều người chia sẻ, cũng như được trang mạng có tên Báo Tiếng Dân đăng lại, tiến sĩ Võ Trí Hảo nói ông quan ngại nhất về nguy cơ đối với Vân Đồn do đảo này có “giá trị quốc phòng” đối với Trung Quốc.
Vị tiến sĩ nhắc lại đặc điểm của hòn đảo là “cận kề Trung Quốc, có lịch sử sinh sống của người Trung Quốc trước năm 1979”, thời điểm quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trở nên thù địch do nổ ra cuộc chiến biên giới giữa hai nước.
Các cơ quan chức năng có trách nhiệm nghiên cứu, đề ra các phương án để giảm thiểu tối đa những nguy cơ mà trong thực tiễn quốc tế đã từng xảy ra. Thậm chí là anh có những hạn chế đối với những đối tượng cảm thấy rằng nó có nguy cơ đe dọa an ninh, chủ quyền đất nước - Tiến sĩ Trần Công Trục
Dẫn lại cảnh báo của đại biểu quốc hội về khả năng người Trung Quốc lợi dụng đặc khu kinh tế Việt Nam để di dân, ông Hảo khái quát về một viễn cảnh đáng lo ngại là những di dân có thể “tạo bất ổn chính trị, kiếm cớ biểu quyết ly khai” rồi “xin gia nhập Trung Quốc” theo kịch bản Crimea.
Bán đảo Crimea từng thuộc về Ukraine, nhưng bị Nga sáp nhập năm 2014 với lý do đa số kiều dân Nga trên bán đảo bỏ phiếu thuận trong cuộc trưng cầu dân ý về giải pháp tách ra khỏi Ukraine và mong muốn được Nga bảo vệ lợi ích.
Nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Trần Công Trục nhìn nhận đây là một nguy cơ, vì vậy chính sách về Vân Đồn phải tính đến các biện pháp ngăn ngừa:
“Vân Đồn gần Trung Quốc cho nên vấn đề an ninh quốc phòng là vấn đề đặt ra. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm nghiên cứu, đề ra các phương án để giảm thiểu tối đa những nguy cơ mà trong thực tiễn quốc tế đã từng xảy ra. Thậm chí là anh có những hạn chế đối với những đối tượng cảm thấy rằng nó có nguy cơ đe dọa an ninh, chủ quyền đất nước”.
Mặc dù xuất hiện nhiều ý kiến trong quốc hội lẫn ngoài xã hội bày tỏ không ủng hộ, song theo bản tin hôm 28/5 của báo mạng VNExpress, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng vẫn đề nghị “cho phép giữ nguyên quy định 99 năm” về cho thuê đất ở các đặc khu.
Dự kiến quốc hội sẽ biểu quyết về dự luật đặc khu kinh tế vào ngày 15/6 tới đây.
Thông tin từ Bộ Tài chính Việt Nam được báo chí dẫn lại cho hay nếu dự luật được thông qua, 3 đặc khu sẽ cần số vốn đầu tư lên đến gần 1,6 triệu tỉ đồng, tương đương gần 69 tỉ đôla, trong đó vốn ngân sách chiếm từ 50-59%, tùy từng đặc khu.
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/lo-ngai-van-don-thanh-crimea-thu-hai-neu-giao-dat-99-nam/4414571.html

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2018

20180530. HẬU QUẢ XẤU CỦA ĐIỀU 62 LUẬT ĐẤT ĐAI VỚI AN NINH QUỐC PHÒNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
ĐIỀU 62 LUẬT ĐẤT ĐAI, TẬP ĐOÀN FLC VÀ NGUY CƠ MẤT NƯỚC !

HOÀNG HẢI VÂN/ FB HHV/ BVN 29-5-2018

clip_image002
Ông Trịnh Văn Quyết, Chủ tịch Tập đoàn FLC. Ảnh: internet
Quốc hội Mỹ đã từng chặn một thương vụ Trung Quốc thâu tóm một cảng biển của Mỹ. Trong hồi ký của mình, cựu Chủ tịch FED Greenspan không tán thành việc ngăn cản trên, ông cho rằng làm như vậy là không cần thiết và có thể hạn chế tự do thương mại. Giữa Trung Quốc với Mỹ không có tranh chấp lãnh thổ, dù cho điều gì xảy ra thì Trung Quốc cũng không thể sử dụng phương tiện của họ trên đất Mỹ để gây hại cho an ninh quốc gia của Mỹ, nên có lẽ các chính trị gia Mỹ đã lo quá xa. Nhưng sự lo xa của họ không phải là không có lý do khi nhìn thấy Trung Quốc thâu tóm đất đai khắp nơi trên thế giới.
Nước Mỹ còn lo xa như thế, còn nước ta thì sao? Việt Nam và Trung Quốc đang tranh chấp lãnh thổ, nói trắng ra là Trung Quốc đang chiếm Hoàng Sa, một phần Trường Sa của Việt Nam và đang tiếp tục đe dọa chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Vì vậy, nước ta không những phải lo xa mà còn lo gần, vì nguy cơ mất đất mất biển đang hiện hữu.
Nỗi lo đó không phải thể hiện ở việc “vô cùng quan ngại” hay “cực lực lên án”, mà ở chiến lược phòng thủ và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Đa phương hóa vấn đề Biển Đông, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để kiềm chế tham vọng của Trung Quốc là một chuyện, nhưng chuyện quan trọng nhất là khả năng tự vệ, không những đối với thế hệ này mà phải bảo đảm khả năng tự vệ dài lâu cho con cháu, đến khi nào thế giới đại đồng thành một ngôi nhà hòa bình mới không còn nỗi lo đó nữa, nhưng chẳng bao giờ có một thế giới như vậy đâu.
Tôi không biết các nhà lãnh đạo đất nước và các nhà lãnh đạo quân sự chiến lược nước ta nghĩ gì khi nhìn thấy đất đai khu vực dọc bờ biển từ Bắc Trung Bộ đến Nam Trung Bộ, cả những vị trí phòng thủ chiến lược trọng yếu, đã và đang đẩy dân đi để giao cho doanh nghiệp làm dự án kinh tế mà không hề có một động thái gì cho thấy việc triển khai các dự án kia nằm ngoài vành đai phòng thủ chiến lược bờ biển quốc gia. Những địa điểm phòng thủ quan trọng nhất trên bờ biển Đà Nẵng thực sự đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm giữ. Còn các nơi khác thì như thế nào?
Xin dẫn trường hợp của FLC. Người ta không thể nào hình dung nổi tập đoàn bất động sản mới nổi này lấy tiền đâu mà chỉ trong một thời gian cực ngắn đã thâu tóm một diện tích đất đai khổng lồ dọc bờ biển từ Bắc Trung Bộ đến Nam Trung Bộ (chưa kể đất đai ở Quảng Ninh, Hải Phòng và các tỉnh khác). Thâu tóm thần tốc, thi công thần tốc, đó là những gì người ta nhìn thấy, kéo theo đó là những “công văn hỏa tốc” của chính quyền địa phương (như trường hợp của Quảng Ngãi) phục vụ cho sự “thần tốc” này. Tôi chưa nói đến những vi phạm pháp luật, chưa nói đến tình trạng dân oan ca thán khắp nơi xung quanh việc thu hồi đất, bài này chỉ giả định mọi thứ họ làm là hợp pháp.
Bạn hãy hình dung: FLC là một công ty đại chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Dù công ty này chưa nằm trong số các công ty được mở room 100% cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng tại một cuộc hội thảo diễn ra ở Nhật vào năm ngoái, Chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết tuyên bố, ngoài việc bán cổ phần, “FLC có thể chuyển nhượng cả dự án cho nhà đầu tư nước ngoài” (tinnhanhchungkhoan.vn, 7-9-2017). Nếu như các dự án của FLC được chuyển nhượng cho các nhà đầu tư Trung Quốc thì điều gì sẽ xảy ra? Trung Quốc, thông qua các doanh nghiệp của họ, sẽ khống chế toàn bộ bờ biển Việt Nam. Họ có thể ém quân, đưa vũ khí khí tài, tổ chức các hoạt động thu thập thông tin tình báo và bí mật huấn luyện quân sự tại những cơ sở của họ dọc theo bờ biển của ta, nếu như họ có ý đồ – mà chắc chắn là chúng có ý đồ chứ còn “nếu như” gì nữa (BVN chú). Và nếu như Trung Quốc ngang nhiên sử dụng vũ lực để uy hiếp chủ quyền của ta trên Biển Đông, đương nhiên chúng ta phải dùng vũ lực để đáp trả nhằm bảo vệ chủ quyền, khi ấy chiến tranh có thể lan rộng, Trung Quốc có thể đem hải quân tấn công vào bờ biển của ta với sự tiếp ứng của lực lượng tại chỗ trên bờ biển của ta mà họ chuẩn bị sẵn. Chúng ta sẽ dựa vào đâu để phòng thủ?
Khi ấy, nước sẽ mất. Chúng ta sẽ rút lên rừng, mà rừng thì nhiều nơi Trung Quốc cũng chiếm giữ theo một cách tương tự. Chúng ta sẽ sống trong nô lệ và sẽ âm thầm truy ra nguyên nhân sâu xa của tình trạng mất nước chính là Điều 62 của Luật Đất đai cho phép chính quyền địa phương thu hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp để doanh nghiệp giao lại cho doanh nghiệp Trung Quốc khi ấy đã thành giặc. Và khi ấy, những người xây dựng và duy trì điều luật này, có thể sẽ tiếp tục làm quan cho Trung Quốc hoặc đã đủ tiền để chạy ra nước ngoài.
Kịch bản trên có thể xảy ra không? Không gì là không thể.
Cách đây mấy ngày, cả Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực UBND tỉnh Quảng Trị cùng ông Trịnh Văn Quyết đi khảo sát để chuẩn bị giao cho FLC 1000 ha khu vực bãi biển Cửa Việt của tỉnh này. Đây là thông tin mới nhất của quá trình thâu tóm thần tốc. Tại đây FLC dự kiến ngoài khu resort, sân golf, còn xây dựng một sân bay. Có khả năng Tập đoàn này sẽ lấp kín các bờ biển mà doanh nghiệp khác chưa chiếm cứ.
Điều 62 Luật Đất đai với quy định cho phép chính quyền địa phương lấy đất của dân giao cho các doanh nghiệp làm dự án, ngoài những tác hại như tôi đã nói ở các bài trước, còn có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Trước mắt, điều khoản này đang biến một số chính quyền địa phương cấp tỉnh và cấp huyện từ công cụ phục vụ lợi ích của nhân dân thành công cụ của doanh nghiệp. Và không chỉ có mỗi một FLC.
Điều nguy hiểm là, đã là luật rồi thì chính quyền địa phương cứ thế thi hành, không ai cản được. Cho dù Tổng Bí thư hay Thủ tướng có nhìn thấy nguy cơ cũng bó tay, nếu điều luật này không được sửa.
H.H.V.
Nguồn: FB Hoàng Hải Vân

NGHĨ VỀ CÁC ĐẶC KHU ĐANG ĐƯỢC QUỐC HỘI XEM XÉT
 Nguyễn Trung Dân/ BVN 29/5/2018
Để chiến thắng và chiếm đóng nước Việt dễ dàng nhất là bằng con đường đầu tư, mua góp, thâu tóm đất đai mà hiện nay ở nhiều nơi tại Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành rất thành công. Rẻ và hiệu quả hơn chiến tranh mà Trung Quốc vẫn lăm le tiến hành! Lòng tham của người Việt, nhất là các quan chức Việt Nam đã tạo rất nhiều cơ hội cho Trung Quốc mua đất, đầu tư nhưng tạo thành những ĐẶC KHU dành riêng, mà người Việt, thậm chí quan chức Việt khó bước được vào bên trong, đừng nói đến kiểm tra, xem xét!
Ngày anh Bá Thanh (Đà Nẵng) còn sống làm Chủ tịch Đà Nẵng, có lần sau khi tìm hiểu việc xây dựng của Khách sạn Crown đầu tư trên bãi biển Mỹ Khê Đà Nẵng (ban đầu còn dùng nhân công Việt), tôi báo động cho Bá Thanh biết họ đang xây những gì không hiểu được. Sau đó tôi biết nhiều cơ quan chức năng không thể vào đó để kiểm tra và đến nay vẫn vậy!
Hơn nữa khi bắt đầu đổi mới (1986) nền kinh tế chúng ta cần những thí điểm làm mẫu, mô hình đặc khu tạo những ưu đãi đặc biệt, có thể cần thiết, hữu dụng. Nhưng khi kinh tế chúng ta đã khá phát triển, đã có Luật pháp tương đối hoàn chỉnh và mọi doanh nghiệp Đà Nẵng đều bình đẳng trong làm ăn và trước pháp luật, thì những ưu đãi dành riêng cho các đặc khu là không cần thiết mà sẽ gây nên những bất công, thiếu bình đẳng tạo điều kiện cho loại TƯ BẢN THÂN HỮU dễ dàng phát triển đối với mô hình này.
Vì vậy, việc làm Luật riêng cho 3 Đặc Khu mà Quốc Hội đang bàn thảo cần được xem xét dưới khía cạnh này để không tạo những cơ hội dễ dàng cho sự bành trướng, xâm chiếm của Trung Quốc mà họ đã lộ rõ trong các tuyên bố trên biển Đông, chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và bây giờ là đất đai dọc biển đất nước đang bị người Trung Quốc thâu tóm dần.
Hãy làm cuộc tổng kiểm kê đất đai dọc biển và những vùng quan trọng nhạy cảm của đất nước, để biết chúng ta đang đứng trước nguy cơ như thế nào!
N.T.D.
Nguồn: FB Nguyễn Trung Dân

SAU 'ÁO LƯỠI BÒ' SẼ LÀ GÌ ?

PHẠM CHÍ DŨNG/NV/ BVN 29-5-2018

clip_image002
Du khách Trung Quốc cố tình mặc áo in hình “lưỡi bò” nhập cảnh vào Việt Nam tại phi trường Cam Ranh hôm 13 tháng Năm, 2018. (Hình: Facebook)
Từ sau thời “ngàn năm Bắc thuộc”, xã hội và lãnh thổ Việt Nam chưa bao giờ cận kề với nguy cơ bị Hán hóa như giờ đây.
Phép thử mới nhất mà Bắc Kinh tung ra, xem ra đã thành công bước đầu: “áo lưỡi bò”.
Cơ thể chính trị bại xụi
Ngày 13 tháng Năm, 2018, 14 du khách Trung Quốc – được chuẩn bị như một hành vi tập thể, có tổ chức – đã đồng loạt cởi áo ngoài để lộ hẳn áo thun nổi bật hình “đường lưỡi bò” ngay tại sân bay Cam Ranh – một vị trí nằm trọn trong tầm ngắm của giàn tên lửa của Trung Quốc đặt tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Trong khi đó, nhiều tàu cá Việt Nam vẫn bị tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc tấn công, đâm chìm, còn ngư dân Việt bị hành hung và bị hất xuống biển.
Không chỉ đặt tên lửa, Trung Quốc còn tiến thêm một bước dài khi mang cả máy bay quân sự ra đảo Đá Subi ở quần đảo Trường Sa.
Đến lúc này, tình thế đã trở nên bi kịch hơn hẳn: không những các giàn phóng tên lửa của Việt Nam ở Trường Sa đã chẳng thể khiến Trung Quốc hoảng sợ, mà cả sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Mỹ USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba, 2018 (theo lời “cầu viện” chính thức của Bộ Quốc phòng Việt Nam) cũng chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc.
Sau bi kịch quân sự là bi kịch xã hội. Phép thử chiến thuật “áo lưỡi bò” mang tính thách thức của giới chuyên gia tâm lý chiến Bắc Kinh đã khiến cho toàn bộ bộ máy đảng cầm quyền, chính quyền và chính sách “Ba không” của Việt Nam hầu như tê liệt.
Trong suốt hai tuần lễ từ ngày 13 Tháng Năm đến nay, đã không có bất kỳ một phản ứng ra hồn ra vía nào từ phía các cơ quan chức năng được xem là “có trách nhiệm” của Việt Nam. Trong khi Phó giám đốc công an tỉnh Khánh Hòa nói như vớt vát “Chúng tôi phải điều tra, khi đấy mới có đủ cơ sở kết luận để có hướng xử lý”, thì cơ chế “phản ứng nhanh” đã được thể hiện thành văn bản giữa Tổng cục Du lịch, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an đã trở thành một cơ thể bại xụi.
Sau những cuộc họp liên ngành và chắc chắn vụ áo “lưỡi bò” đã được báo cáo cho thường trực Ban Bí Thư và Bộ Chính Trị, vẫn không có bất kỳ cơ quan nào dám chịu trách nhiệm để thực thi một động tác cảnh cáo nào, càng không xử lý du khách Trung Quốc, thậm chí còn không dám công khai nêu ra bất kỳ một đề xuất nào để xử lý vụ việc tưởng nhỏ nhưng đã lộ rõ nguy cơ mất nước này.
Cụm từ “cả hệ thống chính trị vào cuộc” mà giới quan chức từ cao cấp lan xuống cấp dưới của Việt Nam ưa khoa trương đã biến sạch khỏi đầu môi chót lưỡi. Thay vào đó là hình ảnh “trùm mền” và đùn đẩy trách nhiệm chính trị giữa các cơ quan.
Sau vụ khiêu khích công khai của các du khách Trung Quốc, điều rất dễ hình dung là các cơ quan như chính quyền Khánh Hòa, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Du lịch đã quyết liệt… họp. Nhưng cũng hệt như rất nhiều cuộc họp thậm chí được tổ chức ở cấp Bộ Chính trị khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc lao thẳng vào vùng chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông như chốn không người vào thời gian từ tháng Năm đến tháng Bảy năm 2014, đã chẳng có nổi một giải pháp, càng không có lấy một hành động ra hồn nào được thực hiện.
“Giải pháp” duy nhất để xử lý vụ khủng hoảng trên té ra lại là “Không để sự cố nhỏ ảnh hưởng đại cục” – thuộc về Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn – một quan chức mà ngay sau phát ngôn này đã bị mạng xã hội phản ứng dữ dội và thái độ của Nguyễn Văn Tuấn bị lên án là không khác gì sự chuẩn bị cho hành vi bán nước.
Chỉ giỏi ‘hèn với giặc, ác với dân’
Rốt cuộc, bạc nhược và hèn yếu vẫn là đặc trưng lớn nhất của một chế độ luôn tuyên rao “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”, thêm một lần nữa minh chứng cho cái hiện thực khốn quẫn về chính quyền Việt Nam chỉ giỏi “hèn với giặc, ác với dân”.
Cho tới nay, tất cả những biểu thị và những cuộc xuống đường của người dân yêu nước phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc vẫn bị chính quyền và công an Việt Nam cấm đoán quyết liệt. Trong lúc rất nhiều cảnh sát mất dạng khi xảy ra những vụ cướp bóc mà phải để giới hiệp sĩ đường phố ra tay và chết thế mạng, người ta lại quá dễ chứng kiến đàn đàn công an sắc phục và thường phục nhảy xổ vào những người biểu tình phản đối Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt vào bất kỳ khi nào có một cuộc xuống đường hay chỉ là một cuộc biểu thị nhỏ.
Trong khi đó, quan hệ Việt - Trung đang “cải thiện” thấy rõ. Nếu trước đây, tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc chỉ dừng ở mức độ áp sát, ngăn cản, hoặc tấn công đánh đập ngư dân Việt, húc lật thuyền Việt… chứ không trực tiếp bắn thẳng vào ngư dân Việt, thì gần đây hành vi “đám người lạ” nhảy thẳng sang tàu cá Việt Nam để bắn chết ngư dân là chưa từng thấy. Vụ ngư dân Trương Đình Bảy bị “tàu lạ” dùng súng AK bắn chết vào tháng Mười Một, 2015 là một minh chứng quá đau đớn.
Vào năm 2017, Quảng Ngãi là địa phương phải chịu áp lực gây hấn nặng nề nhất. Rất nhiều tàu cá và ngư dân Việt đã bị một số lực lượng của Trung Quốc tấn công, trong đó ba tàu cá bị tông va, đập phá dẫn đến chìm.
Các vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt và bắn giết ngư dân Việt đột ngột tăng mạnh kể từ tháng Bảy năm 2017 – thời điểm Việt Nam đưa giàn khoan Repsol – liên doanh với Tây Ban Nha – ra khu vực Bãi Tư Chính để khoan thăm dò dầu khí, cho đến nay.
Thái độ bị xem là quá phụ thuộc và quá ươn hèn của chính thể Việt Nam đã “di truyền” từ quá khứ đến tận hiện tại, khi cả Chính phủ lẫn các bộ ngành liên quan của Việt Nam tuyệt đối “cấm khẩu” trước hàng loạt tàu cá Việt bị “tàu lạ” đâm chìm, còn ngư dân Việt tiếp tục bị người Trung Quốc bắn giết.
Trong mối quan hệ với Hải Quân Hoa Kỳ, có một sự thật trần trụi và đau đớn là giới chóp bu Việt Nam đã chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những mỏ dầu và khí đốt phục vụ cho lợi ích cùng sự tồn tại của đảng cầm quyền, trong khi chẳng hề quan tâm đến nhiều cái chết của ngư dân Việt bị bắn giết bởi tàu Trung Quốc.
Hiện rõ mất nước!
Hình ảnh “đường lưỡi bò” lại xuất hiện ở Việt Nam gần như trùng với một sự kiện được xem là “nhục quốc thể”: vào tháng Tư năm 2018, công ty khai thác dầu khí Repsol của Tây Ban Nha – liên doanh với Vietsopetro của Việt Nam – đã lần thứ hai trong vòng 9 tháng phải cắm mặt rút khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ ở khu vực Bãi Tư Chính phía Đông Nam Việt Nam. Nguồn cơn của vụ rút lui này, dù không hề được giới tuyên giáo và báo đảng Việt Nam thông tin, nhưng ai cũng biết đó là do sức ép và đe dọa của Trung Quốc.
Với bản đồ mới nhất được Bắc Kinh tự vẽ, “đường lưỡi bò” liếm qua đến 67 lô dầu khí, tức gần như toàn bộ các vùng biển có trữ lượng dầu khí mà Việt Nam đã hợp tác với Tây Ban Nha để khai thác, và đang định hợp tác với những công ty dầu khí của Mỹ và Nga để khai thác.
Nhưng “nhục quốc thể” không chỉ bởi vụ chính quyền Việt Nam phải “giương cờ trắng” trước Trung Quốc khi muối mặt yêu cầu Repsol rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ vào tháng Bảy năm 2017 và tháng Tư năm 2018, mà còn là nỗi nhục không còn đất để chui trong phát ngôn “bán nước” của Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn: “Không để sự cố nhỏ ảnh hưởng đại cục”.
Cuộc chiến không cần tiếng súng của Trung Quốc đã bắt đầu từ lâu và đang khởi động một giai đoạn mới. Từ nhiều năm qua, xã hội và toàn bộ thể chế đảng kèm Chính phủ ở Việt Nam đã buộc phải quen với tình trạng thương lái Trung Quốc tung hoành ở khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long khi họ tìm cách vơ vét đến cả lá điều khô, dừa khô, rễ tiêu, rễ sim, rễ hồi, lá khoai mì, lá khoai lang và cả… đỉa.
Cũng hàng chục năm qua, lớp nông dân Việt Nam nhẹ dạ luôn lao từ nỗi bấn loạn này sang cơn điêu đứng khác khi phải chặt bỏ những cây nông nghiệp chính và lâm vào cảnh bị ngân hàng xiết nợ.
Nhưng khi thương lái Trung Quốc “xù” hợp đồng cũng là lúc nông dân lẫn ngư dân Việt Nam rơi vào cảnh điêu đứng vì nợ vay ngân hàng và sản phẩm không tiêu thụ được.
Đó là cuộc chiến và những thủ đoạn chiến tranh kinh tế của Trung Quốc.
Còn với chiến thuật áo “lưỡi bò,” hẳn là Bắc Kinh đã tính toán lấn từng bước và tự tạo hình ảnh “đường lưỡi bò” ngay trên lãnh thổ Việt Nam, ngay trước mũi các cơ quan bị xem là “cực kỳ vô trách nhiệm” của Việt Nam, và lâu dần sẽ khiến hình ảnh này trở nên bình thường hóa trong nhận thức và tâm lý của người dân, và khi đó sẽ là thành công của chủ trương “Hán hóa Việt Nam”.
Được “nội gián” bởi không ít quan chức của chế độ CSVN, có thể chẳng bao lâu nữa Bắc Kinh sẽ hoàn tất kế hoạch Hán hóa Việt Nam. Trạng thái vô cảm, cấm khẩu và có thể cả tê dại vì sợ hãi của các cơ quan “có trách nhiệm” ở Việt Nam sẽ là một nhân tố tích cực để xúc tác cho một phong trào du khách Trung Quốc, và cả một số người Hoa sinh sống ở Việt Nam, phô diễn “áo lưỡi bò,” cùng những hình ảnh và hành động biểu thị chủ quyền Trung Quốc trong vùng chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông, trong không bao lâu nữa.
Việt Nam, một đất nước vô luật.
Để đến lúc đó, thêm một lần nữa, trong rất nhiều lần của lịch sử “bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước”, nước Việt khốn khổ này bị đẩy vào nhà tù Bắc thuộc.
P.C.D.
Tác giả gửi BVN

NỖI LO VỀ 3 ĐẶC KHU

ÁNH LIÊN/ VNTB/ 29-5-2018

Mong muốn các đặc khu ra đời và hỗ trợ cho nền kinh tế Việt nam vượt qua các giai đoạn khó khăn cũng như tiến tới cái gọi là ‘cất cánh’ là mong muốn của nhiều người. Nhưng bên cạnh mong muốn và kỳ vọng, thì cũng tồn tại nỗi lo lắng không khác gì nỗi lo của đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa.
“Không ai muốn có thêm nhiều 'củi' sau khi đặc khu ra đời!”, ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cho biết sau khi nghe báo cáo dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc vào ngày 23.05.
Nỗi lo của ông đại biểu bao gồm 9 điểm; theo đó là có sự nôn nóng, chạy theo thành tích thông qua việc các đặc khu hiện tại chỉ chú trọng 'ưu đãi về thuế thuê đất, mặt nước'; Luật đặc khu vẫn chưa thiết kế điều cấm với Hiến pháp và nguyên tắc cơ bản của pháp luật; chưa quy định rõ việc đầu tư có sử dụng và khai thác tài nguyên biển - nước phải tuân theo Luật Biên giới, Luật biển và Luật Tài nguyên nước; thời hạn giao đất quá dài lên đến 99 năm; chưa tính đến cái lợi và hại của việc mở casino; chưa chú trọng đến quy trình rà soát với nhà đầu tư chiến lược trong khi ưu đãi lớn, quyền hạn lớn.
Nỗi lo 9 điểm nêu trên phản ảnh về nỗi lo ‘đi tắt đón đầu’, chỉ thấy lợi ích trước mắt của đặc khu đem lại nguồn ngân sách cho tỉnh/quốc gia mà tìm mọi giá để thực thi, trong khi tính rủi ro về ưu đãi chưa tính đến; sự chồng chéo về luật đặc khu với các văn bản luật khác chưa tính đến. Nếu hiểu một cách toàn diện thì đặc khu hiện nay chỉ đem lại lợi ích lớn nhất cho các nhà đầu tư và đầu tư, cũng như tiềm ẩn những mối nguy hại về an ninh quốc phòng, bởi mọi yếu tố và phương án rủi ro chỉ dừng ở mức ‘sơ khai’.

clip_image002
Các đặc khu kinh tế đang trở thành sân chơi của giới đầu cơ đất?

Nhiều Facebooker cũng bày tỏ nỗi lo về tính ưu đãi của 3 đặc khu này, nhất là mảng cho thuê đất, và ví von 99 năm không khác gì một hình thức ‘nhượng địa’ mà Trung Quốc từng áp dụng đối với Hồng Kông thời kỳ thực dân Anh. Và nếu như thế, đặc khu vô tình trở thành tiền đồn để phá hoại an ninh quốc phòng, an ninh kinh tế của các thế lực thù địch thực sự đối với Việt nam. Nguy cơ này càng cao khi nền pháp quyền Việt nam còn yếu kém, soạn thảo - ban hành luật cho đến thực thi và giám sát còn chưa vững. Ai có thể dám khẳng định rồi đây, Phú Quốc – một trong những đặc khu kinh tế – không trở thành kiểu mẫu của ‘một quốc gia, hai chế độ’ tức từ ‘đặc khu kinh tế’ chuyển thành ‘đặc khu hành chính’; là bán đảo Crimea một thời bị chia tách khỏi nước Nga mặc dù hiện tại, từ chính sách và quy hoạch đều do T.Ư quyết?
Ở một khía cạnh khác, có thực 3 đặc khu sẽ là nơi thu hút đầu tư và sinh lợi hay đơn thuần đây chỉ là một vụ buôn bán đất lớn ở tầm quốc gia. Trước đó, không phương tiện truyền thông đại chúng nào phản ánh về tình trạng cò đất, sốt đất cũng như chuyển quyền sử dụng đất không hợp pháp tại ba đặc khu này; một số tập đoàn kinh tế tư nhân cũng nhảy vào và chiếm lấy đất vàng; cũng như sự buông lỏng quản lý đất đai trên địa bàn đặc khu (mà báo Tiền phong mới đây đã phải phản ảnh rằng, lập dự án 'ma' trên đất nông nghiệp, loạn phân lô bán nền, mua bán trái phép đất rừng, nhiều công trình dự án đã không tuân thủ qui hoạch, nhiều vùng biển đã bị bao chiếm trở thành “vùng cấm” của các nhà đầu tư,... đã băm nát đảo Ngọc trước khi trở thành đặc khu). Trong khi đó, dư luận nổi sóng vụ một số cán bộ, công chức, viên chức phòng ban ở huyện đảo Phú Quốc bỏ việc đi làm cò đất.
Đó chưa kể trình độ của các vị ĐBQH về đọc luật và thông qua luật hiện nay là khá hạn chế, không ai có thể tin tưởng được việc duyệt Luật đặc khu – vốn là nền móng quản lý kinh tế đặc khu – khi mà các vị ĐBQH từng có tỳ vết thông qua các văn bản pháp luật với nhiều lỗi sai sót nghiêm trọng, mà gần nhất đây là Bộ Luật hình sự tồn tại những sai sót khó có thể chấp nhận khi được thông qua. Do đó, nó không đơn thuần như cách nói của ông TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, người từng cho rằng không nên ‘lo sợ nhiều’ về Luật đặc khu, bởi, ‘Cứ lật qua lật lại, lo sợ nhiều quá thì không làm được đâu’.
Tính thiếu quản lý hành chính từ đầu và sự vội vã trong hình thành đặc khu khiến tính rủi ro trong phát triển đặc khu ngày càng cao đến mức, không ai sẽ đảm bảo các đặc khu này sẽ thành công. Rủi ro tiếp tục tăng cao, khi các đặc khu được ví như một ván bạc trong khi bản thân tiềm lực tài chính Việt nam hoàn toàn không dồi dào, và cơ sở pháp lý như ĐBQH Trương Trọng Nghĩa nêu lên là còn ở giai đoạn ‘sơ khai’. Việc tiến hành cùng lúc 3 đặc khu với xuất phát điểm như nhau dù mang tính sống còn cho nền kinh tế, nhưng lần này cũng sẽ không còn ‘sợi kinh nghiệm’ nào để rút khi nó đổ bể hàng loạt và 1,5 triệu tỷ đồng (Việt Nam) sẽ trôi ra sông, ra biển và hàng loạt các hệ lụy khác nhau sẽ nảy sinh?
Câu chuyện đặc khu không khác gì những đề án liên quan đến hình thành Chaebol tại Việt Nam thời ông Nguyễn Tấn Dũng, cũng với tư duy ‘nhanh, mạnh’ nhưng lại thiếu vững chắc, trong khi nguồn tài chính quốc gia lúc đó không khó khăn như bây giờ, nhưng đề án Chaebol đó đã đổ bể, và trong gần 10 năm, nền kinh tế Việt Nam bị tổn thương cực kỳ mạnh mẽ.
Câu chuyện ‘nóng lòng’ khi hoạch định chính sách cũng đã từng hiện diện không ít trong quá khứ, ở cấp quốc gia là Chaebol, ở cấp vùng miền là sự ‘dày đặc cảng biển, khu kinh tế, sân bay’ nhưng kinh tế không cất cánh được.
Còn ‘củi’, không có ai cả, trách nhiệm toàn dân; 3 đặc khu với 99 năm lại càng không thể có củi để đốt, vì quá lớn và quá lâu.
Liệu nên chăng các vị trí thức phải lên tiếng và gióng hồi chuông cảnh báo các vị ĐBQH hãy đặt cả tâm thế của người dân nước Việt, tâm thế của sự sinh tồn của giống nòi Việt nam, tâm thế của một thời cha ông đổ máu xương đi mở đất mà hãy dừng bấm khi chưa sẵn sàng. Và liệu cần thiết cho một trưng cầu ý dân về vấn đề này?
Xưa có 9 điều bi ai của dân tộc, nay liệu có nỗi lo 9 điểm có phải là dự báo về sự tồn vong của dân tộc Việt?
A.L.
VNTB gửi BVN

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2018

20180529. QUANH CHỦ TRƯƠNG CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
TIỀN ĐÂU TĂNG LƯƠNG ?

THIỀN LÂM/ Cali Today/ BVN 29-5-2018


Kết quả hình ảnh cho lạm phát

Rất tương đồng với động tác ‘Quốc hội ra nghị quyết để xử lý nợ xấu’ vào năm 2017 nhưng cho tới nay nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại vẫn gần nguyên trạng bế tắc, Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp – được Tổng Bí thư Trọng ký ban hành vào ngày 21/5/2018 – đang vấp phải một bế tắc cực lớn: tiền đâu?
Với bản nghị quyết trên, chính thể độc đảng ở Việt Nam đang tiến vào lần thứ 5 cải cách chính sách tiền lương, sau 4 lần cải cách chính sách tiền lương vào các năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003.
Bản nghị quyết trên mang một tham vọng lớn lao: Đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp. Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
Giải pháp chủ yếu của bản nghị quyết trên là hàng năm dành khoảng 50% tăng thu dự toán và 70% tăng thu thực hiện của ngân sách địa phương, khoảng 40% tăng thu ngân sách Trung ương cho cải cách chính sách tiền lương. Và tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước; tiếp tục thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên tăng thêm hàng năm cho đến khi thực hiện khoán quỹ tiền lương trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao.
Tuy nhiên, ngân sách có cho phép có dư địa (tích lũy) để tăng lương hay không lại là một câu chuyện khác hoàn toàn.
Bởi hiện trạng, ngân sách lại đang ‘tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc’ vào thai kỳ kết thúc trước khi xuất ra một quái thai cuối cùng.
Vào năm 2017, nếu không tính đến phần bán vốn Tổng công ty Rượu bia - nước giải khát (Sabeco), thu được chẵn 5 tỷ USD, tương đương 110.000 tỷ đồng, kết quả thu ngân sách năm 2017 chỉ là 1.173 ngàn tỷ đồng, tức chỉ đạt 96,8% dự toán thu đầu năm 2017.
Kết quả 96,8% thu ngân sách năm 2017 không những không được xem là thành tích mà còn bị coi là một thất bại, bởi đây là lần đầu tiên sau nhiều năm, thu ngân sách quốc gia không đạt so với dự toán. Cũng là năm thứ ba liên tiếp, thu ngân sách từ khối trung ương không đạt dự toán.
Đó chính là nguồn cơn sâu xa và cay đắng về việc tại sao trong năm 2018, Chính phủ phải tiếp tục đè dân thu thuế và tìm cách “bán mình” tại một số tập đoàn được xem là “bò sữa” luôn mang lại lợi ích cho chính thể và cầm hơi cho đảng cầm quyền, khiến cho tăng giá và thuế má trở thành một trong những biểu đạt cực đoan nhất trong giai đoạn cuối của một cơ chế cưỡng bức và cưỡng đoạt ở Việt Nam.
Nhưng đè đầu dân thu thuế là một biện pháp rất dễ dẫn tới phản kháng xã hội trên diện rộng, không chỉ ở tầng lớp dân nghèo mà cả tầng lớp cán bộ hưu trí. Trong năm 2017, âm mưu tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) của ‘Bộ Bóp cổ’ (một cách gọi của dân về Bộ Tài chính) đã bị dư luận và báo chí phản ứng dữ dội. Sức dân đã cạn, chẳng còn gì để ‘khoan’ nữa.
Lẽ dĩ nhiên trong hoàn cảnh khốn quẫn ấy, đảng cầm quyền có thể ngầm chỉ đạo cho Ngân hàng nhà nước – cơ quan có chức năng in tiền – để in tiền ồ ạt và lấy tiền đó để trả lương cho đội ngũ công chức viên chức mà có ít nhất 30% trong đó ‘không làm gì cả nhưng vẫn đều đều lãnh lương’.
Vào năm 2008, tổng dư nợ cho vay của khối ngân hàng là 2,3 triệu tỷ đồng, nhưng đến cuối năm 2016 đã lên đến hơn 6 triệu tỷ đồng, chưa kể tồn khoảng 1,2 triệu tỷ đồng. Phải chăng một cách tương ứng, lượng tiền được Ngân hàng Nhà nước cho in và bổ sung vào lưu thông đã có thể vào khoảng 500,000 tỷ đồng mỗi năm, tức phần “lạm phát in tiền” đã chiếm đến 10 – 15% hàng năm – một tỉ lệ in tiền rất cao so với tỉ lệ in tiền bình quân của các nước phương Tây?
Tốc độ in tiền bất chấp lạm phát cũng lý giải việc tại sao trong những năm qua và đặc biệt trong mấy năm gần đây, giới cán bộ hưu trí lại thường phản ánh nhận được lương hưu với nhiều tờ tiền có mệnh giá 500.000 đồng, mới cứng và chắc chắn chưa được lưu hành ngoài thị trường.
Nhưng cơ chế in tiền ồ ạt tất yếu sẽ kéo theo một danh nghĩa mới: “kiến tạo lạm phát”, dẫn đến lạm phát thực tế và cơn bão giá cả trên thị trường và khiến nền kinh tế mất thăng bằng nghiêm trọng.
Trong khi đó, bài toán ‘tinh gọn bộ máy’ và ‘tinh giản biên chế’ vẫn còn lâu mới được giải quyết, hoặc chẳng bao giờ được giải quyết.
Từ sau Hội nghị trung ương 6 vào tháng Mười năm 2017 khi đảng ra nghị quyết về giảm 10% biên chế, cho tới nay bộ máy của đảng và các cơ quan Chính phủ vẫn tiếp tục phình to mà chẳng hề giảm đi chút nào.
Cùng lúc, phần chi thường xuyên (chủ yếu là chi lương cho công chức viên chức) vẫn chiếm đến hơn 70% trong tổng chi ngân sách.
Có nghĩa là trong lúc chỉ hô khẩu hiệu về giảm biên chế, đảng và Chính phủ lại chăm chăm tìm mọi các để ‘bóc lột dân ta đến tận xương tủy’, hoàn toàn không quan tâm gì đến số người nghèo đang tăng phi mã ở rất nhiều địa phương. Và cũng không hề biết là đến một lúc nào đó, có lẽ không còn xa nữa, hàng triệu người dân và cả công chức hưu trí sẽ phải ồ ạt xuống đường để phản kháng chính sách thu cùng diệt tận giai đoạn cuối của chính thể ‘chỉ biết ăn không biết làm’ này.
T.L.
Nguồn: https://www.baocalitoday.com/viet-nam/tien-dau-tang-luong-nuoi-dang.html

BỘ NÀO 'THƯƠNG DÂN' NHẤT ?

BÙI HOÀNG TÁM/ DT 26-5-2018

Thứ nhất, Bộ Tài chính vừa đưa ra đề xuất áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước ngọt có đường. Lý giải việc làm này, Bộ Tài chính cho rằng tỷ lệ người trưởng thành bị thừa cân, béo phì và tiểu đường ở Việt Nam đang ở mức cao. Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, các loại đồ uống có đường ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe...
Thứ hai, bà Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế Nguyễn Thanh Hằng dẫn lời một chuyên gia kinh tế (sau đó, ông này đã “nói lại”) đề xuất đưa mức thuế môi trường mặt hàng xăng dầu lên 10 đến 20 ngàn đồng/lít. Lý do, mặt hàng xăng dầu là sản phẩm có chứa nhiều chất gây ô nhiễm môi trường như chì, lưu huỳnh, benzen, hydrocacbon thơm, hydrocacbon nặng và một số phụ gia...
"Đây là những chất gây hại đến an toàn, sức khỏe và môi trường…”. Bà Hằng giải thích.
Thứ ba, được biết tổng biên chế công chức năm 2018 của các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài (không bao gồm biên chế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng)… là 265.106 biên chế, trong đó riêng Bộ Tài chính là hơn 70 nghìn người.
Theo một báo cáo của Chính phủ, cả nước có tổng cộng 337 Cục trưởng, 767 Phó Cục trưởng thì đứng đầu là Bộ Tài chính với 181 Cục trưởng, 423 Phó Cục trưởng,
Đấy chỉ là vài trong số rất nhiều thông tin mà người viết bài này tập hợp sơ bộ trên báo Dân trí.
Song, chi với những thông tin này thôi, đã thấy Bộ Tài chính thương dân, lo lắng cho dân đến mức độ nào.
Lo dân bị tăng cân, béo phì, Bộ đề xuất tăng thuế mặt hàng nước ngọt có đường để giảm lượng tiêu thụ, đảm bảo sức khỏe cho dân.
Lo môi trường không khí bị ô nhiễm, Bộ đề nghị tăng thuế môi trường mặt hàng xăng dầu lên 10-20 ngàn đồng/lít.
Lo cho nạn thất nghiệp, sinh viên ra trường không có công ăn việc làm, Bộ “tình nguyện” số biên chế khủng nhất nước với hơn 70 ngàn người, bằng hơn ¼ tổng biên chế của tất cả các ngành nghề cộng lại (trừ lực lượng vũ trang).
Lo cho dân không có người trông nom, chỉ đạo, Bộ có hẳn 181 Cục trưởng, 423 Phó Cục trưởng, chiếm hơn 50% số lượng Cục trưởng, Phó Cục trưởng cả nước.
Đó là chưa kể thương dân, Bộ từng đề xuất điều chỉnh 5 luật về thuế trong đó có thuế Thu nhập cá nhân hay lo cho dân phải ở nhà rộng, đắt tiền tốn kém, Bộ đề xuất đánh thuế nhà trị giá từ 700 triệu đồng trở lên.
Xin cảm ơn tấm lòng “thương dân” của Bộ Tài chính và hi vọng rằng rồi đây dân sẽ lập miếu thờ như lời của Nhà thơ Nguyễn Duy: “Thương dân, dân lập miếu thờ…”, phải không các bạn?
Bùi Hoàng Tám