Văn mẫu làm “thui chột” sáng tạo của học sinh
Trong hai ngày 12-13/8 vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị Tổng kết năm học 2020-2021 và triển khai nhiệm vụ năm học 2021-2022 đối với giáo dục Trung học.
Tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn yêu cầu năm học mới các trường Trung học Phổ thông phải học thật, thi thật. Riêng môn Ngữ văn phải chấm dứt học theo văn mẫu, bài mẫu.
Ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhận được sự đồng thuận của đông đảo các chuyên gia, các nhà giáo tâm huyết.
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về vấn đề này, Tiến sĩ Chu Đình Kiên, giảng viên khoa Sư Phạm, Trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế cho biết, hiện nay, các bài làm văn mẫu trên mạng Internet cũng như sách tham khảo ở các nhà sách rất nhiều, đủ mọi cấp học từ Tiểu học đến Trung học phổ thông. Việc ghé mua, tìm một quyển văn mẫu bất kì cấp học nào ở nhà sách thực sự quá dễ dàng.
Nếu đó là những bài văn được xây dựng, viết ra từ tâm huyết của thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp thì quả thực đáng quý. Nhưng hầu hết, các bài viết này là kết quả của sự sao chép, “xào nấu” từ trang website này qua trang website nọ, sách tham khảo này qua sách tham khảo khác. Đặc biệt với công nghệ tiên tiến như hiện nay, thao tác, thủ thuật đó diễn ra đơn giản và nhanh chóng.
“Không ít bài văn được cắt ghép kiểu ‘râu ông nọ cắm cằm bà kia’. Nguy hiểm hơn là khi học sinh chưa ý thức được sự nguy hại của văn mẫu, vội vàng xem đó là chuẩn mực để làm theo.
Có một thực tế là đa số giáo viên thực sự có tâm huyết trong dạy học Ngữ văn lại không viết văn mẫu và dùng văn mẫu để giảng dạy.
Họ chỉ định hướng cách làm bài, còn năng lực hiểu biết, kĩ năng thực hành văn bản, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn văn chương hoàn toàn thuộc về các em.
Vậy các bài văn mẫu đó xuất hiện là kết quả của những thầy cô ‘tay ngang’ chứ không phải của giáo viên dạy Ngữ văn thực thụ”, Tiến sĩ Kiên chia sẻ.
|
Tiến sĩ Chu Đình Kiên, giảng viên khoa Sư Phạm, Trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế. (Ảnh: Nhân vật cung cấp) |
Theo Tiến sĩ Chu Đình Kiên đánh giá, sự xuất hiện của văn mẫu là biểu hiện của sự xuống cấp trầm trọng trong dạy học Ngữ văn hiện nay. Bởi văn mẫu có quá nhiều hậu quả, hệ lụy.
Từ áp đặt kiến thức của giáo viên đến việc thui chột vẻ đẹp tâm hồn, sự sáng tạo của học sinh, văn mẫu làm sai lệch ý nghĩa đích thực của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
Tiến sĩ Chu Đình Kiên cho rằng: “Đối với học sinh, không đọc văn bản nhưng vẫn có thể viết được văn. Các bài văn mẫu đã “mớm” cho các em một số tuyệt chiêu để rồi không ít lần chúng tôi đọc bài làm của học sinh dở khóc dở cười.
Cũng không ít giáo viên với nhiều lí do khác nhau đã không chịu khó trau chuốt kiến thức và kĩ năng dạy học mà chỉ dựa vào các bài văn mẫu, giáo án mẫu, dạy thao thao bất tuyệt từ năm này qua năm khác.
Chúng tôi nghĩ, văn mẫu thực sự có lỗi rất lớn đối với học sinh. Vì vậy, với tư cách là một giáo viên trong ngành, nhất là giáo viên Ngữ văn phải kiên quyết nói không với văn mẫu”.
Cũng chia sẻ về vấn đề này, cô Lê Thị Hải Yến, giáo viên môn Ngữ văn, Trường Trung học Phổ thông Trần Văn Kỳ (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) cho hay:
“Đối với học sinh, văn mẫu sẽ triệt tiêu sự sáng tạo và biến học sinh trở thành một cỗ máy. Các em chỉ cần ghi nhớ máy móc mà không có tư duy. Điều này dẫn đến tình trạng khi gặp một đề bài mà các em không thuộc, không kịp ghi nhớ, hoặc đã quên thì các em không thể giải quyết được.
Chức năng của văn học muốn các em hướng tới là giáo dục về chân, thiện, mỹ. Khi đọc văn mẫu, các em được nhồi nhét ngôn từ của các thầy cô, thậm chí là các nhà nghiên cứu và các em nói theo, viết theo. Các em không có những rung động từ trái tim mình”.
Thực tế trong quá trình dạy học, cô Lê Thị Hải Yến chia sẻ, cô gặp nhiều trường hợp cùng một bài thơ, nhưng các em phân tích khổ này rất dài, viết theo trí nhớ bài văn mẫu mình đã học thuộc, còn khổ kia bỏ giấy trắng.
Những học sinh đọc văn mẫu sẽ dẫn đến tình trạng ghi nhớ máy móc, không đào sâu tác phẩm nên học trước quên sau, mất nhiều thời gian mà không hiểu gì. Lẫn lộn các nhân vật, không nhớ sự việc, chi tiết của tác phẩm.
Ngoài ra theo cô Hải Yến, Ngữ văn là môn học cần truyền cảm hứng, học sinh phải cảm nhận được “lửa” từ người dạy. Việc đọc văn mẫu cho học sinh chép, bản thân người dạy cũng nhàm chán. Bởi chỉ bằng một kịch bản, một bài giảng được diễn đi, diễn lại ở nhiều khối lớp, nhiều thế hệ học trò.
|
Cô Lê Thị Hải Yến, giáo viên môn Ngữ Văn, Trường Trung học Phổ thông Trần Văn Kỳ (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). (Ảnh: Nhân vật cung cấp) |
Phải thay đổi thói quen sử dụng văn mẫu
Cô Lê Thị Hải Yến cho rằng, việc thay đổi thói quen sử dụng văn mẫu phải được thực hiện ở cả người học lẫn người dạy, đặc biệt là giáo viên. Môn Ngữ văn là môn học cảm thụ, điều đó đồng nghĩa học sinh có quyền sáng tạo. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều vào văn mẫu khiến học sinh mất dần quyền năng đó cũng như giáo viên bị thụ động trong việc triển khai bài giảng và đánh giá học sinh.
“Có nhiều giáo viên không cho học sinh có quyền sáng tạo, nếu viết sai ý, không đúng với các luận điểm thầy cô đã dàn bài thì bài đó bị điểm thấp. Ngược lại, nếu các em chép y nguyên các luận điểm thầy cô đã vạch ra, bản thân người chấm bài thực chất đó là chấm lại văn mình.
Vì vậy, để các em yêu thích môn Ngữ văn, chúng ta cần bỏ ngay văn mẫu, phải làm sao mỗi giờ dạy giáo viên không ngừng đổi mới phương pháp tạo hứng thú cho học sinh. Có như vậy thì giờ học môn Ngữ văn mới trở thành tiết học truyền cảm hứng, không phải giờ đọc-chép”, cô Hải Yến bày tỏ.
Theo Tiến sĩ Chu Đình Kiên, với sự thay đổi của chương trình sách giáo khoa mới như hiện nay đã dần thay thế việc sử dụng văn mẫu trong nhà trường.
Năm học 2021-2022, chương trình Ngữ văn 6 có ba bộ sách được đưa vào giảng dạy, bao gồm: bộ Cánh diều, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, bộ Chân trời sáng tạo. Tùy thuộc vào điều kiện của địa phương, nhà trường sẽ lựa chọn bộ sách cho phù hợp với thực tiễn.
“Chúng tôi đã nghiên cứu và nhận thấy đâu đó còn có những ‘hạt sạn’ cần chỉnh sửa, nhưng với sự thay đổi về cấu trúc tổng thể đã hạn chế rất lớn việc học sinh sử dụng văn mẫu để làm bài tập. Sách giáo khoa mới đã gắn việc học lí thuyết với thực hành văn bản trong cuộc sống.
Ví dụ ở Bài số 1, với câu hỏi số 6 (tr.18) sách giáo khoa Ngữ văn 6 (bộ Cánh diều) có sử dụng các câu hỏi mở rộng: ‘Vì sao Đại hội Thể dục Thể thao dành cho học sinh phổ thông Việt Nam được lấy tên là Hội khỏe Phù Đổng?’.
Với loại câu hỏi này, học sinh trình bày quan điểm, ý kiến cá nhân theo cách hiểu của mình, đồng thời giúp các em hiểu được ý nghĩa của một hoạt động thể thao diễn ra trong nhà trường”, Tiến sĩ Kiên cho hay.
Bên cạnh việc thay đổi sách giáo khoa, bản thân mỗi thầy cô giáo phải thường xuyên học tập đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả để một mặt chấm dứt tình trạng văn mẫu, mặt khác phù hợp với bối cảnh dạy học hiện nay.
Không dựa vào văn mẫu, bản thân mỗi thầy cô phải dùng chính những kiến thức của chính mình truyền đạt cho các em học sinh. Từ đó mới giúp học trò có cảm hứng, cảm thụ được những giá trị môn học để vận dụng vào đời sống, tạo lối sống nhân văn, ứng xử tốt đẹp.
Tiến sĩ Chu Đình Kiên nhận định: “Trong năm học 2021-2022 và những năm học tiếp theo, bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống thì việc ứng dụng công nghệ thông tin, thay đổi hình thức dạy học trực tuyến cũng là cách giáo viên dạy học Ngữ văn thay đổi thói quen sử dụng văn mẫu cho học sinh của mình”.
Cao Kim Anh
LẠM BÀN VỀ VĂN MẪU
ĐỖ XUÂN THẢO/ TD 19-8-2021
Mấy hôm nay, người ta xôn xao bàn về vấn đề “chấm dứt học theo văn mẫu, bài mẫu” mà ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt ra trong Hội nghị tổng kết năm học 2020 – 2021.
Giữa mùa dịch cúm Tàu đang điêu đứng muôn dân, nhà thì “bao việc”, mình đã định không viết gì về câu chuyện “nhà em có nuôi một ông nội” xưa như trái đất này. Tuy nhiên, không viết gì thì cảm thấy “ngứa ngáy” mà viết thì bao nhiêu cho đủ. Thôi thì, trước tiên cứ mạn phép có đôi điều thế này:
1. Thứ nhất, việc “chấm dứt học theo văn mẫu, bài mẫu” (nói rộng hơn với tất cả các môn học là nạn sao chép hoặc học tủ – học chỉ phục vụ cho thi cử, học vẹt – bắt chước một cách thụ động, học gạo – học nhồi nhét…) trong tương lai cần một cuộc cách mạng thật sự trong giáo dục. Cho nên, trước mắt và trong tương lai gần chỉ có thể từng bước hạn chế vấn nạn này. Bởi vì nó như một mắt xích của cả cái guồng máy cũ kĩ đang vận hành, từ quản lí vĩ mô (Nhà nước, Bộ và các Sở giáo dục đào tạo…) vi mô (các Phòng giáo dục, các trường phổ thông, người dạy, người học và các bậc phụ huynh…) đến việc dạy học, ra đề, cách thức tổ chức kiểm tra đánh giá…
1.1. Muốn phát triển phẩm chất, năng lực người học thì trước tiên phải đổi mới cách kiểm tra, đánh giá; chấm dứt việc thi cử theo kiểu tái hiện kiến thức, văn thầy lại trả lại cho thầy (như những bất cập trong Đề thi tốt nghiệp PTTH năm 2021 mà mình cũng đã góp phần chỉ ra). Chương trình giáo dục phổ thông nói chung, chương trình môn Ngữ văn nói riêng đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành từ cuối năm 2018 nhưng cho đến nay, chưa thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành bộ tiêu chí, công cụ đánh giá chất lượng giáo dục theo Chương trình này để làm cơ sở cho các nhà trường, nhà giáo và các cơ quan quản lý giáo dục thực hiện. Chủ yếu vẫn là cách đánh giá cũ với khả năng ghi nhớ kiến thức, khả năng học thuộc, học tủ và học gạo. Đề thi tốt nghiệp PTTH thì hết năm này sang năm khác không Chí Phèo thì Hai đứa trẻ, không Tây tiến thì Sóng hoặc Vợ nhặt, Chiếc thuyền ngoài xa… mà văn mẫu về mấy tác phẩm này thì này bán nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm, hỏi sao học sinh không học vẹt hay sao chép lại.
1.2. Vì vậy, theo mình, văn mẫu không có tội, cách “sản xuất” ra văn mẫu tràn lan và quan trọng hơn là cách sử dụng văn mẫu mới là nguyên nhân làm văn mẫu bị biến chất. Văn mẫu là phương tiện cần thiết trong quá trình dạy học văn của GV – HS. Tuy nhiên, cần biết cách sử dụng văn mẫu đúng lúc, đúng nơi và đúng mục đích (không phải chỉ để đối phó với thi cử như hiện nay). Còn bài toán nan giải nữa là ông thầy, từ lâu phần nhiều giáo viên ta là những thợ dạy, năm này sang năm khác vẫn ngần ấy thứ và thao thao bất tuyệt như một cái máy. Barem chấm Ngữ văn mà cứ “đếm ý ăn điểm” thì hỏi học sinh nào dám “phá cách”, giáo viên nào dám cho điểm những bài văn sáng tạo. Để rồi, đã là văn tả bà thì nhất thiết phải tả bà tóc bạc, da mồi hoặc chống gậy tây ngây… dù thực tế ở nhà bà có thể vẫn nhuộm tóc và phóng xe máy rầm rầm; đã là kể chuyện chứng kiến hoặc tham gia thì thể nào cũng dắt cụ già qua đường, chăm sóc gia đình thương binh liệt sĩ… Học sinh phải lặp đi lặp lại những lời nói dối, lấy văn của người khác làm của mình để đảm bảo không phiền hà gì ở phần lời của phê giáo viên trong mỗi bài kiểm tra. Đề thi “trình bày cảm nhận của em” nhưng đáp án là của thầy, sai đáp án là không cho điểm, thậm chí “ăn ngỗng”…
1.3. Những vấn đề liên quan tới cách ra đề, lời giải và cách chấm thi sẽ là các vấn đề kĩ thuật mà Bộ trưởng cùng cộng sự có thể xử lí được. Bộ trưởng cũng từng nhấn mạnh rằng sẽ chú trọng hơn tới công tác sát hạch. Đó cũng là chỉ dấu cho thấy rằng ông đã thấy lối ra của nạn sao chép trong nhà trường. Vấn đề là ông chỉ đạo và cấp dưới thực thi thế nào?
Một điều không kém phần quan trọng nữa là, để nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn phải quan tâm đến chất lượng dạy và học Tiếng Việt. Một thời gian rất dài chúng ta loay hoay với các nỗ lực tăng cường ngoại ngữ với hết dự án này đến dự án nọ nhưng hiệu quả thế nào thì chắc ai cũng rõ. Ở chiều ngược lại, với cách học dạy Văn và cả dạy học Ngữ khuôn mẫu, giáo điều và cũ kĩ như hiện nay thì trình độ Tiếng Việt của học sinh sẽ còn là dấu hỏi rất lớn.
2. Thứ hai, việc chấm dứt học theo văn mẫu không thể thực hiện được căn cơ nếu chủ nghĩa thành tích trong giáo dục không được cải thiện. Nếu chỉ “nói không với văn mẫu” mà những cuộc chạy đua bất tận về điểm số, việc xếp loại giỏi tràn lan, việc coi trọng bằng cấp hơn thực lực và đạo văn vẫn ngang nhiên diễn ra… như hiện nay thì bài toán “chấm dứt văn mẫu” vẫn chưa có lời giải.
Chúng ta còn nhớ cách đây hơn chục năm, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân hồi mới nhậm chức cũng rầm rộ phát động công cuộc “nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” rằng thì là mà “đến năm 2010 giáo viên sẽ sống được bằng lương”. Nhưng rồi “lực bất tòng tâm”, khẩu hiệu mãi chỉ là khẩu hiệu.
3. Thứ ba, cần phân biệt giữa “học theo, làm theo mẫu” với “hiện tượng sao chép”. Thực chất hiện nay, bệnh copy nguyên xi, không chịu động não mới “triệt tiêu sáng tạo”. Còn việc đưa ra “mẫu” (hay “kiểu” “ mô hình” “biểu mẫu” “khuôn mẫu”… mà trong tiếng Anh tuỳ từng lĩnh vực khoa học người ta dùng các thuật ngữ: pattern, paradigm, model, form, template…) để tổ chức cho học sinh dựa vào mẫu mà thực hành, vận dụng rồi sáng tạo lại là cần thiết ở hầu khắp các lĩnh vực. Trong tiếng Anh các thuật ngữ “pattern” “paradigm” hay “ form” đều có nghĩa danh từ, động từ hoặc tính từ; Ví dụ: “pattern” nghĩa danh từ là “kiểu, mẫu, mô hình” thì nghĩa động từ là “lấy làm kiểu, làm mẫu”…
3.1. Như vậy, từ “mẫu” của thầy đến “làm theo mẫu” của trò là một con đường, một cách thức chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng. Vấn đề là nhà giáo dục cung cấp mẫu và tổ chức cho học sinh “làm theo mẫu như thế nào”. Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng có hẳn một phương pháp gọi là “Phương pháp luyện tập theo mẫu”. Phương pháp này gọi nôm na là phương pháp mô phỏng, bắt chước, là cách thức làm việc đặc thù của học sinh tiểu học. Để sử dụng hiệu quả phương pháp này giáo viên cần: Nắm được mục tiêu dạy học cụ thể; Có khả năng tạo các mẫu tiếng Việt bằng cách “thị phạm”; Nắm chắc những điểm còn sai lệch ở học sinh so với mẫu; Có những thủ thuật để chuyển những sản phẩm lời nói lệch lạc, sai mẫu của học sinh về hợp chuẩn…
3.2. Việc làm thế nào để từ “ luyện tập theo mẫu” đến hình thành năng lực “ tưởng tượng, sáng tạo” cho HS trong viết văn ở tiểu học, nếu có dịp mình sẽ trao đổi kĩ hơn. Tuy nhiên, trong các tài liệu gần đây, đặc biệt trong cuốn “ Chiến thuật viết văn tiểu học” (mình là Chủ biên), ý tưởng viết sáng tạo cho học sinh tiểu học từ khâu Ra đề, Viết câu; Viết đoạn và Viết bài văn miêu tả… đã được hiện thực hoá một cách khá cụ thể, tường minh. Xin đơn cử một trong số các “chiến thuật” viết câu và đoạn ở tiểu học: Chiến thuật mở rộng câu bằng 5 câu hỏi: Khi nào? Ở đâu ? Cái gì (con gì?…) Đang làm gì? Vì sao? Ví như, thông thường, bạn viết: “Chú chim sẻ nâu hót”. Nhưng với “chiến thuật” mở rộng câu bằng trả lời 5 câu hỏi trên, bạn sẽ viết được câu: “Chú chim sẻ nâu hót” thành câu: “ Buổi sáng, trên cành cây hoa giẻ trước nhà, chú chim sẻ nâu hót véo von vì chú yêu mùi hương ngọt ngào của hoa giẻ ”.
3.3. Từ đó HS sẽ lấy các ví dụ với “Ai” (hoặc “Con gì?” “Cái gì?”) và trả lời các câu hỏi còn lại là sẽ được những câu văn rất đẹp. Ví dụ: Ai?: Mẹ. Đang làm gì?: Mẹ đang nấu ăn. Ở đâu?: Mẹ đang nấu ăn trong bếp. Khi nào?: Mẹ đang nấu ăn trong bếp khi trời vừa tối. Vì sao?: “Mẹ đang nấu ăn trong bếp khi trời bắt đầu tối vì mẹ muốn cả nhà được thưởng thức một bữa tối thật ngon”. Ví dụ 2: Con gì?: Con mèo. Đang làm gì?: Con mèo đang sưởi nắng. Ở đâu?: Con mèo đang sưởi nắng ngoài sân. Khi nào?: Con mèo đang sưởi nắng ngoài sân vào lúc nắng sớm vừa lên. Vì sao?: “Con mèo đang sưởi nắng ngoài sân vào lúc nắng sớm vừa lên vì nó muốn vừa sưởi nắng vừa ngắm nhìn những giọt sương long lanh đậu trên lá cây”… Sau các ví dụ mẫu là phần ghi nhớ cho chiến thuật viết câu kiểu này bằng đoạn thơ nôm na: “ Muốn tạo thành câu / Bạn ơi không khó / Đầu tiên phải có / Bạn viết về ai? / Đừng sợ đúng sai / Viết thêm lời kể / Ai làm gì thế? / Ai đang ở đâu? / Muốn đủ một câu / Trả lời tiếp nhé / Vì sao lại thế? / Khi nào xảy ra?”. Tiếp theo sẽ là phần Thực hành cho chiến thuật viết câu này.
3.4. Bạn đã từng thấy một con voi trong rạp xiếc bị cột chân chưa? Nếu để ý một chút, bạn sẽ nhận ra con voi đó có đeo một cái vòng kim loại ở cổ chân, nối với một sợi dây xích nhỏ. Và sợi dây xích được gắn với một cái chốt gỗ được đóng xuống đất. Chú voi nặng mấy tấn có thể dễ dàng nhấc chân lên, cái chốt gỗ sẽ bật mở và chú voi có thể trốn thoát. Nhưng chú đã không làm như vậy.
Bởi vì khi voi còn nhỏ, cũng cái vòng, sợi xích và cái chốt đó đã được sử dụng để giữ voi đứng yên một chỗ. Khi ấy cái vòng đủ mạnh để giữ chân voi con dù nó cố gắng chạy. Vì mỗi lần chạy nó lại bị sợi xích cứa vào chân đau đớn. Và nó ngừng bỏ trốn. Khi voi lớn lên, nó không bao giờ quên trải nghiệm ấy. Vì thế khi bị xích, nó nghĩ rằng không thể thoát ra và nếu chạy sẽ bị đau. Nên nó cứ đứng đó với sợi dây mỏng manh.
3.5. Kể tiếp câu chuyện này, mình muốn nói với các nhà quản lí giáo dục, các thầy cô và các bậc phụ huynh, rằng: Chúng ta cũng thường “NHỐT” các ý tưởng, các cách viết văn sáng tạo của trẻ bằng những “sợi dây xích” như vậy.
Vì thế, việc viết văn trở nên gò bó, khô cứng và khuôn mẫu.
Chỉ khi nào các nhà quản lí giáo dục, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh nhận thức được rằng, chẳng có “sợi dây xích” nào cả, chẳng có ràng buộc giả định nào đặt ra với các em cả. Lúc ấy, các em mới được tự do bay nhảy trong thế giới tuổi thơ hồn nhiên, trong thế giới sáng tạo tuổi trẻ của mình. Bằng không mọi “quyết tâm chính trị” vẫn chỉ là khẩu hiệu…
Để các em luôn là “những chú voi” tự do…
Đỗ Xuân Thảo
NTB- Xin góp thêm 2 ý kiến:
1- Ngữ văn hay bất cứ môn học nào cũng cần có 'chuẩn' để thầy và trò hướng tới mục tiêu đặt ra. 'Sách giáo khoa', 'Luận mẫu', 'Đề và hướng dẫn giải về toán, lý, hóa' ... (gọi chung là văn mẫu) là công cụ trợ giúp đánh giá mức độ 'hợp chuẩn' tức mức độ đạt mục tiêu. Riêng muốn đánh giá 'tính sáng tạo' của người học thì phải so với 'mẫu'. Việc loại bỏ hoàn toàn các 'văn mẫu' là không chính xác. Vấn đề là cách xây dựng và sử dụng các 'văn mẫu' ra sao?
2- 'Tác phẩm văn học' là đối tượng dạy và học của ngữ văn phổ thông là một loại 'văn mẫu' đặc biệt. Kho tàng văn học Việt Nam vô cùng phong phú, trải dài theo thời gian với các dân tộc, xu hướng... Cũng cần đổi mới, sáng tạo trong tuyển chọn đưa vào sách giáo khoa.
CẦN PHÂN BIỆT SAO CHÉP VĂN MẪU VỚI HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP MẪU
PHẠM MINH/ GDVN 22-8-2021
Chấm dứt học theo văn mẫu, bài mẫu đối với môn Ngữ văn là một trong những yêu cầu được Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nêu ra tại Hội nghị tổng kết năm học 2020-2021 và triển khai nhiệm vụ năm học 2021-2022 đối với giáo dục trung học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
Quan điểm của Bộ trưởng được đông đảo các giáo viên ủng hộ. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải có những giải pháp cụ thể để thực hiện yêu cầu này.
Học theo văn mẫu do cách ra đề, chấm thi theo lối cũ
Trong cuộc trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Nguyễn Thị Loan - Tổ trưởng Tổ Ngữ Văn, Trường Trung học phổ thông Nguyễn Văn Trỗi (Hà Tĩnh) nhận định, đây là một quan điểm chỉ đạo đúng đắn, hướng tới mục tiêu đổi mới, phát triển phẩm chất năng lực người học, trong khi hiện nay, thực trạng học sinh sao chép văn mẫu, học thuộc lòng, học tủ vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ, đặc biệt đối với phần nghị luận văn học.
|
Cô Nguyễn Thị Loan - Tổ trưởng Tổ Ngữ Văn, Trường Trung học phổ thông Nguyễn Văn Trỗi. (Ảnh: NVCC) |
Theo cô Loan, việc học sinh sao chép văn mẫu, bài mẫu xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Mặc dù chúng ta đang trong quá trình đổi mới giáo dục nhưng cách ra đề thi vẫn chưa đổi mới, chưa tạo ra được sự đột phá. Ngay trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, phạm vi ngữ liệu đề thi vẫn giống các năm trước, chỉ xoay quanh các tác phẩm văn học lớp 12, hoặc liên hệ, so sánh với các tác phẩm hiện đại trong chương trình lớp 11.
“Một nguyên nhân nữa là do điểm số vẫn luôn là tiêu chí quan trọng trong các kỳ thi, xét tuyển vào các trường. Để trúng tuyển vào các trường đại học, điểm số là yếu tố quyết định, trong khi cách ra đề, chấm thi chưa thay đổi, giáo viên vẫn buộc phải “cày nhuyễn” kiến thức để có số điểm chắc chắn cho học sinh.
Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên vẫn chưa hoàn toàn tích cực trong tiếp nhận những ý tưởng mới, đột phá, sáng tạo của học trò khi bài viết chưa đủ ý như đáp án. Cách chấm thi vẫn theo lối mòn cũ, dựa theo các ý mà đáp án đưa ra. Đó cũng là lý do buộc học sinh phải học theo mẫu một cách rập khuôn, khó phát huy tính sáng tạo”, cô Loan cho biết.
Một khi ngành giáo dục vẫn chịu ảnh hưởng bởi căn bệnh chỉ tiêu thành tích, dùng điểm số học sinh để đánh giá giáo viên thì việc dạy môn Ngữ văn còn khó đổi mới.
Điều quan trọng là cần định hướng học bộ môn Ngữ Văn nhằm giúp học sinh hình thành những kỹ năng trong cuộc sống sau này, bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục đạo đức, nhân cách cho các em thì chúng ta lại chỉ mải chạy theo điểm số.
Ủng hộ chấm dứt học theo bài mẫu, văn mẫu nhưng cô Loan cho rằng, cần phải phân biệt hai cách học: học sao chép, bê nguyên văn mẫu và học theo cách làm mẫu để phát triển năng lực sáng tạo.
Học theo cách sao chép là học thuộc, bê nguyên những gì bài văn mẫu phân tích để đưa vào bài làm văn của mình, cách học này sẽ thủ tiêu tính sáng tạo tích cực của học trò.
Tuy nhiên, nếu học sinh tham khảo văn mẫu, học theo phương pháp mẫu để tiếp nhận những góc nhìn sâu sắc về tác phẩm văn học, để mở rộng, làm giàu vốn từ cũng như khả năng diễn đạt thì sẽ giúp các em phát triển hiệu quả năng lực sáng tạo của mình. Bởi lẽ, trong các phương pháp kỹ thuật dạy học tích cực có phương pháp dạy học làm mẫu.
“Trên thị trường hiện nay, văn mẫu rất nhiều, tràn lan và khó kiểm soát được chất lượng. Có những cuốn sách đúng thực sự là văn mẫu, nội dung hay, sâu sắc nhưng cũng không ít những cuốn sách văn mẫu không đảm bảo chất lượng, nhạt nhẽo, thậm chí sai kiến thức.
Bên cạnh biết cách học sáng tạo từ văn mẫu thì cần phải chọn lọc sách, tài liệu mẫu. Sử dụng đúng phương pháp, văn mẫu sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng, giúp học sinh mở rộng vốn từ, phát triển năng lực phản biện và có suy nghĩ sâu sắc hơn”, cô Loan khẳng định.
Cần đổi mới đồng bộ
Theo cô Nguyễn Thị Loan, để học sinh không bị lệ thuộc vào văn mẫu mà từ bài văn mẫu để phát triển tốt năng lực của mình thì đòi hỏi giáo viên cần tích cực đổi mới về phương pháp dạy học.
Môn Ngữ văn là một môn học phát huy tối đa khả năng sáng tạo cho học sinh, giáo viên không thể đem tư duy của mình làm chuẩn mực và áp đặt vào suy nghĩ của các em. Giáo viên phải khuyến khích học sinh suy nghĩ sáng tạo, mạnh dạn với những ý tưởng đột phá, đồng thời phải đổi mới cách đánh giá học sinh và chấm điểm bài làm.
Song, muốn thực sự chấm dứt việc học theo bài mẫu đối với môn Ngữ văn cũng như học tủ với các môn học khác thì cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Cô Loan chia sẻ: “Chúng ta đang tiến tới đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa. Nhưng quan trọng hơn là đổi mới cách ra đề, kiểm tra, đánh giá, chấm thi. Đề thi không nên bị giới hạn ngữ liệu trong sách giáo khoa, ra đề thi phải theo hướng mở để học sinh phát triển tư duy, năng lực sáng tạo của mình.
Cách chấm thi cũng cần thay đổi, giáo viên phải ghi nhận những ý mới và hay, sáng tạo, những góc nhìn, cách cảm nhận của các em trong mỗi bài viết. Chỉ khi được ghi nhận sự sáng tạo thì học sinh mới phát huy được tính sáng tạo, giáo viên cũng áp dụng được nhiều phương pháp dạy học mới.
Một điều không kém phần quan trọng là cần tạo môi trường giáo dục tích cực để giáo viên tự giác, phấn khởi với đổi mới, phải làm sao để giáo viên nhận thấy đổi mới là nhu cầu tự thân chứ không phải hoài nghi hay là tâm thế bị ép buộc.
Một khi giáo viên vẫn phải lo lắng về ‘cơm áo gạo tiền’ thì họ sẽ không thể toàn tâm cho công việc, khó đủ thời gian để trau dồi chuyên môn, thực hiện đổi mới”.
Nói đến vai trò của giáo viên trong hoạt động đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, cô Loan cho biết, quá trình này cần phải thực hiện thường xuyên, mang tính tự giác, tích cực.
Giáo viên phải tự chủ trong xây dựng kế hoạch dạy học đã phát huy được hiệu quả trong nhà trường, đa dạng các hình thức dạy học như dạy học trên lớp, dạy học gắn liền với hoạt động trải nghiệm...
Bên cạnh đó, cần vận dụng các phương pháp dạy học tích cực như dạy học dự án, đóng vai, hoạt động nhóm… để phát triển tốt năng lực học sinh. Đồng thời đổi mới đánh giá không chỉ dừng lại ở tái hiện kiến thức, bài viết như cũ mà phải tăng cường tương tác, để học sinh phát triển tư duy phản biện, khả năng sáng tạo của mình.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế và tổ chức bài học cũng sẽ đem lại hiệu quả giảng dạy tốt hơn, giúp học sinh hào hứng, không còn áp lực, không nhàm chán với môn Ngữ văn.
Ngoài ra, nhà trường cũng phải thể hiện vai trò của mình để đồng hành cùng giáo viên trong đổi mới dạy học.
Cơ sở giáo dục cần tổ chức chuyên đề đổi mới về phương pháp dạy học, thiết kế bài học theo các bước giúp giáo viên hiểu và áp dụng có hiệu quả. Mỗi trường cần có quỹ riêng dành cho hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Mỗi môn học nên có ít nhất một hoạt động trải nghiệm trong một năm học.
Việc sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học cần được tổ chức, thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, đúng mục đích, tính chất, đồng nghĩa phát huy vai trò của tổ chuyên môn, sẽ là yếu tố quan trọng góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng bộ môn. Giờ thao giảng nên tổ chức nhẹ nhàng, hạn chế việc "diễn" của giáo viên. Những người tham dự giờ thao giảng cần chú ý vào hoạt động của học trò, cách tổ chức bài giảng của người dạy, để từ đó đánh giá hiệu quả, tìm ra nguyên nhân, giải pháp.
“Đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập là điều quan trọng cần làm. Song, đổi mới là cả quá trình đòi hỏi về thời gian. Muốn chấm dứt học theo bài mẫu, văn mẫu cần phải đi từ đổi mới trong cách ra đề, đánh giá, chấm thi.
Chúng ta phải thực hiện từng bước và đồng bộ các giải pháp, nhưng cũng cần lưu ý, không nên bị động, hình thức, hô hào theo số đông, cũng không nên lấy đề thi của quốc gia này, đất nước nọ làm chuẩn để so sánh, để bắt chước một cách cứng nhắc. Tôi cho rằng, đã đổi mới, sáng tạo thì vẫn phải giữ được bản sắc riêng cho giáo dục Việt Nam”, cô Loan khẳng định.
Phạm Minh
THẦY CÔ CÒN PHẢI SOẠN GIÁO ÁN THEO MẪU CỦA BỘ, HỌC TRÒ LÀM SAO THOÁT VĂN MẪU ?
NGUYỄN MẠNH CƯỜNG /GDVN 23-8-2021
Dạy thêm, học thêm tràn lan, có thể nói đã và đang tác động tiêu cực lên giáo dục nói riêng và xã hội nói chung.
Chính nguồn thu từ dạy thêm, học thêm tràn lan, đã khiến người ta sẵn sàng bỏ ra hàng trăm triệu để “chạy biên chế”, giáo viên “chạy” vào nghề không vì đam mê nghề nghiệp, mà chỉ vì vào để… dạy thêm.
Mất “vốn” mới vào được biên chế, vào rồi, giáo viên tìm mọi cách để “ép” học sinh đến lớp học thêm nhằm “gỡ vốn đầu tư”; dạy thêm càng phát triển, hình ảnh người thầy trong mắt học sinh, phụ huynh càng đi xuống, bức tranh giáo dục càng trở nên “tối”.
Thực tế, cuộc sống của những giáo viên dạy thêm được thường cao hơn nhiều lần giáo viên không dạy thêm; vào bất cứ cơ sở giáo dục nào, chỉ cần nhìn phương tiện đến trường là biết giáo viên nào dạy thêm, giáo viên nào không. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ, cũng có giáo viên “nhờ ông ngoại” mà có xe đẹp, nhưng rất ít.
Lương giáo viên thấp, khó xin việc, nên học sinh giỏi không muốn vào sư phạm; thế nhưng ngay cả bộ môn dạy thêm được, nếu bạn hỏi, chắc chắn học sinh sẽ nói thật, không muốn làm giàu bằng cách… dạy thêm. Nói cách khác, học sinh không muốn học thêm, dù học thêm làm cho mình được coi là “giỏi”.
Dạy thêm, học thêm, đang khắc sâu “văn mẫu” vào học trò
Không chỉ có chuyện Văn mẫu, mà “mẫu” có trong tất cả các môn học ở nền giáo dục hiện nay.
Nào là Văn mẫu, Toán mẫu, Lý mẫu, … quả thật “mẫu” đã triệt tiêu cảm xúc, sáng tạo của người học, của nguồn nhân lực tương lai, chủ nhân tương lai của đất nước.
Một người bạn chia sẻ chuyện nhà “Cháu mình tự học ở nhà, mình kèm được, không đi học thêm, khi bài giải toán, cháu ghi “Khối lượng gạo bà bán được trong ngày là: …” bị cô giáo gạch, mà phải ghi là “Tổng số gạo bà bán được trong ngày là: …”, dù đáp số y như nhau, nhưng cháu chỉ được nửa số điểm, cháu thắc mắc, cô bảo giải bài không đúng … mẫu; cháu buồn lắm, về đòi bố mẹ cho đi học thêm, để làm đúng “mẫu”.
Giáo viên dạy thêm “mớm” đề kiểm tra, học sinh nào làm bài không giống “mẫu” mình đã dạy thì không thể đạt điểm tối đa, dù bài làm đúng; “Văn mẫu” trở thành cái roi lùa học sinh đến lớp học thêm, gây bất bình xã hội.
Chính học thêm, dạy thêm tràn lan đang khắc sâu “Văn mẫu, Toán mẫu, Lý mẫu, …” vào học sinh, làm thui chột phẩm chất, năng lực sáng tạo của học trò, đồng phục giáo dục.
Giáo viên dạy thêm cũng theo văn mẫu, giáo án mẫu
Chân thành mà nói, cũng có giáo viên dạy thêm bằng phẩm chất, năng lực của mình; qua dạy thêm, họ truyền tải, kích thích được sự sáng tạo của học trò.
Giáo viên dạy thêm bằng phẩm chất, năng lực của mình, tuyệt đối không cần “giáo án”, dạy từ trí tuệ, từ trái tim của mình, không bao giờ nhắc học sinh đóng tiền; giáo viên này có, nhưng con số này không nhiều; đại đa số đều dạy thêm theo “mẫu”.
Giáo viên dạy theo “mẫu”, bắt học sinh học theo “mẫu”, làm theo “mẫu”, chỉ cần thấy học sinh khác “mẫu” là biết không đi học thêm mình, không được đúng điểm theo đáp án, thật không còn xấu xí nào hơn.
Năm học chưa bắt đầu, thế nhưng không ít lời chào mời bán “bia kèm lạc”, bán Kế hoạch bài dạy theo Công văn 5512 kèm… giáo án dạy thêm.
|
Rao bán giáo án dạy thêm, dạy chính khóa trên mạng Facebook. (Ảnh chụp màn hình) |
Điều đáng buồn, chính Công văn 5512 đã và đang hình thành “thị trường” giáo án “mẫu”, bao gồm cả dạy học chính khóa và cả dạy thêm… chính khóa.
Vô hình trung, chính Công văn 5512 đã và đang khuyến khích “mẫu”, đi ngược lại chỉ đạo, mong muốn của Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn về chấm dứt “văn mẫu” trong giáo dục.
Như vậy, để chấm dứt “văn mẫu” trong giáo dục như mong muốn của Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, ngoài bỏ “mẫu” trong ra đề khảo thí, chúng ta còn phải triệt tiêu “văn mẫu” trong giáo án (kế hoạch bài dạy), kế hoạch giáo dục…
|
Rao bán giáo án dạy thêm, dạy chính khóa lớp 6 năm học 2021-2022 trên mạng Facebook dù năm học mới chưa khai giảng. (Ảnh chụp màn hình) |
Chương trình lớp 6 năm nay mới thực hiện; năm học mới chưa khai giảng, vậy mà thị trường giáo án dạy thêm lớp 6 đã được hình thành và phát triển rầm rộ trên… mạng.
Những người bán giáo án dạy thêm lớp 6 đã “đi tắt, đón đầu” dự đoán chương trình lớp 6 mới, thị trường dạy thêm vẫn sẽ nhộn nhịp, bán giáo án dạy thêm lớp 6 sẽ… sống được.
Chương trình mới hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực cho người học, thế nhưng nếu học sinh phải đi học thêm; nếu dạy thêm theo giáo án ‘mẫu”; mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực cho người học chỉ… nằm trên giấy; chống “văn mẫu” chỉ nằm trên… “khẩu hiệu”.
Vì thế, chống “văn mẫu” thì trước hết phải chống giáo án mẫu đi đôi với chống dạy thêm, học thêm tràn lan như hiện nay. Hay nói cách khác, thầy cô còn phải theo 1 mẫu giáo án chung của Bộ và còn dạy thêm, học thêm tràn lan như hiện nay, chống “văn mẫu” sẽ thất bại; mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực cho người học sẽ không thể trở thành hiện thực.
Ngoài dạy thêm theo giáo án mẫu, giáo viên dạy thêm còn khai thác nguồn học liệu “vô tận” từ hệ thống sách tham khảo, sách để học tốt, tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi,….
So với giáo án dạy thêm “mẫu”, hệ thống sách tham khảo, sách để học tốt, tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi,…. “hoành tráng” và “quy mô” hơn nhiều về số lượng và phương thức đi vào “giỏ hàng” của học sinh.
Những “học liệu mẫu” để giáo viên dạy thêm khai thác, dạy thêm, học thêm tràn lan đó là sản phẩm của một số tác giả viết sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên biên soạn, nên rất “uy tín”.
Giáo viên đi dạy trên lớp nhưng “giấu bài” để dạy thêm, các tác giả viết sách lại “giấu bài” để viết “sách dạy thêm”; một bên dạy thêm, một bên viết sách dạy thêm, mối quan hệ tuy hai nhưng là một.
Nếu chương trình mới vẫn còn đó hệ thống sách tham khảo, sách để học tốt, tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi,…. thì dạy thêm, học thêm tràn lan khó mà mất được, kiểm soát được. Giấc mơ trả lại tuổi thơ cho học sinh khi thực hiện chương trình mới… vẫn rất xa vời.
Ba chữ “yên” không chỉ dành cho bậc học Mầm non, ba chữ “yên” cũng cần thiết với bậc học phổ thông, khi học sinh luôn là những “đứa trẻ”, là “mầm non” trong mắt của bất cứ bậc làm cha làm mẹ nào.
Học sinh đến lớp được yên vui, không bị những “cái roi” vô hình dồn ép; cha mẹ yên lòng khi con cái mình không mất hết tuổi thơ, mất hết ký ức trẻ con; suốt ngày hết học thêm chính khóa, tối lại đến học lớp học thêm nhà thầy.
Thầy cô công tác yên tâm, sống được bằng lương của mình, không phải đánh đổi nhân cách để nâng cao chất lượng cuộc sống bằng những hành vi thiếu chuẩn mực, dồn ép học sinh đi học thêm.
Cần lắm những chính sách, văn bản chỉ đạo của Bộ, bám sát cuộc sống; ngôn ngữ tường minh, không đa nghĩa, có tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng cuộc sống nhà giáo, ai đọc cũng hiểu, không gây hiểu nhầm, không bị các cơ sở giáo dục “vận dụng” để làm khổ thầy cô.
Cùng với đó, chính sách, văn bản chỉ đạo của Bộ không tạo khuôn mẫu, hình thức; đảm bảo sự tự do sáng tạo cho nhà giáo.
Thầy cô tự do sáng tạo, mới có thể kích thích sáng tạo, hứng thú từ người học, biến chỉ đạo, mong ước của Bộ trưởng về loại trừ văn mẫu ra khỏi nền giáo dục thành sự thật.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Nguyễn Mạnh Cường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét