Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020

20200704. BỘ GIÁO DỤC ĐÁNH GIÁ VỀ TRƯỜNG CHUYÊN

ĐIỂM BÁO MẠNG
BỘ GIÁO DỤC ĐÁNH GIÁ THÀNH TỰU VÀ 4 HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG CHUYÊN
THÙY LINH / GDVN 3-7-2020
Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Đề án phát triển hệ thống trường trung học phổ thông chuyên giai đoạn 2010 - 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, Đề án phát triển hệ thống trường chuyên đã có tác động lớn đến việc thay đổi nhận thức của các cấp chính quyền, cha mẹ học sinh, học sinh và xã hội về mục tiêu trường chuyên.
Mạng lưới trường chuyên từng bước được hoàn thiện, quy mô trường lớp và học sinh được mở rộng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của các trường chuyên từng bước được tăng cường.
Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên trường chuyên chuyển biến đáng kể về chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực đội ngũ được các cấp quản lý giáo dục quan tâm.
Chất lượng giáo dục tại các trường chuyên có chuyển biến rõ nét, thể hiện qua kết quả xếp loại 2 mặt giáo dục, kết quả thi đại học, kết quả thi Olympic khu vực, quốc tế, thi Intel ISEF trong các năm qua;
Kết quả thi Olympic khu vực, quốc tế, thi Intel ISEF của học sinh trường chuyên trong cả nước trong giai đoạn 2010-2016 (Ảnh tư liệu)
Việc giao lưu, hợp tác với cơ sở giáo dục nước ngoài đã được một số trường chuyên thực hiện.
Ví dụ, nhìn vào bảng phía trên cho thấy, trong giai đoạn 2010 - 2016 trong kỳ thi Olympic quốc tế, học sinh trường chuyên của cả nước giành được 37 huy chương vàng, 63 huy chương bạc và 54 huy chương đồng.
4 hạn chế của trường chuyên
Về tuyển sinh, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết đã ban hành Thông tư 12/2014/TT-BGDĐT về quy chế tổ chức và hoạt động của trường chuyên nhằm đổi mới, tăng quyền tự chủ cho các địa phương về công tác tuyển sinh vào trường chuyên.
Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng thông tin, để đánh giá sát hơn năng lực thực tế của học sinh, Bộ đã hướng dẫn sử dụng bộ công cụ trắc nghiệm đánh giá chỉ số thông minh (IQ), chỉ số xúc cảm (EQ), chỉ số vượt khó (AQ) của học sinh hỗ trợ việc tuyển sinh vào các trường như:
Chuyên Hạ Long (Quảng Ninh), Trường chuyên Bắc Giang và Trường chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương); Trường chuyên Lê Hồng Phong (Nam Định) và Trường chuyên Hùng Vương (Phú Thọ).
Dù sử dụng kết quả trắc nghiệm trong tuyển sinh vào trường chuyên nêu trên còn ở mức độ ban đầu nhưng từ kết quả đo được cho thấy đây là cơ sở quan trọng trong việc phát hiện năng lực tư duy khoa học, khả năng xử lý thông tin và khả năng vượt khó của học sinh;
Là một trong những kênh thông tin quan trọng cho việc định hướng xây dựng kế hoạch đào tạo, phát triển năng khiếu của học sinh, đặc biệt trong việc đổi mới dạy học theo hướng định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh hiện nay.
Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chỉ ra 4 hạn chế của trường chuyên.
Thứ nhất, việc xây dựng các trường chuyên có cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ và hiện đại, có chất lượng giáo dục tốt ở một số địa phương chưa được triển khai mạnh và chưa đạt những kết quả rõ rệt.
Thứ hai, một số trường chuyên còn hạn chế trong việc phát huy được vai trò đi đầu trong việc đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động dạy học, quản lý nhà trường; chưa chứng tỏ được vai trò hình mẫu của các trường trung học phổ thông về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo và tổ chức các hoạt động giáo dục.
Thứ ba, việc huy động các nguồn lực từ hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào giáo dục để xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị dạy học hiện đại; việc hợp tác, liên kết với cơ sở giáo dục nước ngoài về xây dựng chương trình, bồi dưỡng giáo viên vẫn còn hạn chế.
Thứ tư, năng lực ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh trường chuyên còn hạn chế.
Việc triển khai thí điểm dạy học môn Toán và các môn khoa học bằng tiếng Anh chưa được mở rộng; thí điểm dạy học nội dung giáo dục tiên tiến của nước ngoài chưa được thực hiện ở nhiều trường chuyên.
Thùy Linh
TIN LIÊN QUAN:
AI ĐƯỢC HƯỞNG LỢI TỪ TRƯỜNG CHUYÊN ?
THÚY NGỌC/ GDVN 29-6-2020
Phụ huynh trường chuyên có giàu không?
Nếu tính mặt bằng chung các phụ huynh có kinh tế tốt nhất phải là ở các trường quốc tế, hiện nay đang ngày càng nhiều, sau đó là ở các trường tư thục hàng đầu, mà giờ phần lớn cũng có dạy hệ quốc tế hay bán quốc tế.
Khi con trai lớn tôi học Ams, cả khối có một bạn là con đại gia nhà có xe Hummer. Tôi cũng biết vài phụ huynh Ams chưa từng học đại học, nhà rất khó khăn.
Phụ huynh các trường chuyên và các trường công lập hàng đầu ở thành phố phần đông sẽ rơi vào thành phần như ngày xưa hay được các cụ gọi là thành phần “căn bản”, nghĩa là làm công – ăn lương đủ sống.
Trường chuyên của tỉnh như trường Lê Hồng Phong tôi từng được mời tới nói chuyện có lớp đến nửa là nhà làm nông, dựa theo khảo sát nhanh tại Hội thảo.
Nhưng họ có một mẫu số chung là phần lớn đều rất quan tâm đến con và việc học hành của con, dù đó là một đại gia bất động sản hay một bác nông dân.
Tùy điều kiện, họ sẽ đầu tư cho con thầy xịn, lớp luyện riêng hay chỉ đơn giản là bớt việc nhà, ưu tiên phòng thoáng mát cho con tự học.
Ai đang chi trả cho học sinh trường chuyên?
Trường công, ngân sách Nhà nước lấy từ thuế của người dân chi cho mỗi học sinh theo định mức là 18 triệu đồng/ 1 năm/ 1 học sinh (ví dụ trường Ams).
Ai đang đóng thuế nhiều nhất cho Nhà nước? Xin thưa, đó là người giàu.
Ai càng giàu càng phải đóng nhiều thuế, nước nào cũng thế!
Chưa nói thuế Thu nhập doanh nghiệp, thuế Thu nhập cá nhân còn nói có người có thể còn gian dối trốn tránh được, có những thứ thuế ẩn luôn trong giá bán mà người giàu không thể trốn được như VAT hay thuế tiêu thụ đặc biệt.
Như vậy, nếu một người mua xe ô tô hạng sang, họ có thể yên tâm là tiền thuế họ đã nộp cho Nhà nước đủ cho 2 người con học cả 12 năm ở những trường có định mức chi giáo dục công cao như trường Ams.
Dĩ nhiên, tiền thuế còn để chi nhiều thứ khác ngoài giáo dục, cũng như một người mua xe còn phải trả thuế khi mua xăng, bảo hiểm, sửa chữa, cầu đường..
Trường công, là Nhà nước phải lấy tiền thuế để hỗ trợ cho con em người nghèo được tiếp cận giáo dục, để các em sau này có cơ hội thoát nghèo.
Trường chuyên nên là trường công, để các em học sinh có cùng trình độ cao đều có thể tiếp cận giáo dục tốt.
Có thể các em nhà giàu thì dễ hơn vì được bố mẹ đầu tư cho học hành ôn luyện. Nhưng các em nhà nghèo cũng còn có khả năng thi thố mà vào khi có thể mua sách, thậm chí mượn sách tự học.
Bạn tôi là một giáo viên khá nổi tiếng luyện chuyên trường Ams năm nào cũng nhận những học trò nhà nghèo học miễn phí.
Học sinh muốn vào trường chuyên để làm gì?
Mỗi em có một mục tiêu, nhưng theo tôi thì đầu tiên là vì chất lượng học thuật của các trường chuyên, trong đó không chỉ có giáo viên tốt mà còn quan trọng là có bạn bè tốt, cùng trình độ tạo ra một môi trường học tập tốt.
Hiện có những trường chuyên danh giá cơ sở vật chất cũng chưa được đầu tư nhiều mà vẫn rất khó thi vào; vào rồi học cũng rất khó được điểm cao bằng học ở trường thường với các em đã thi chuyên học lực thường cũng tốt.
Trường chuyên có hệ thống tìm tòi, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, nên là cơ hội tốt cho các em thử sức mình. Nếu không vào đội tuyển cũng được hưởng thụ một môi trường tốt.
Phần lớn các trường chuyên hiện nay đã chuyển mình theo xu hướng mới, gia tăng thêm rất nhiều hoạt động ngoại khóa, xây dựng kỹ năng, đề cao tinh thần vì cộng đồng.
Học sinh đi làm tình nguyện (Ảnh do tác giả cung cấp)
Hay nhất là các hoạt động đó phần lớn lại do chính các học sinh trực tiếp phụ trách, tự chỉ đạo và tự thực hiện mọi khâu, từ tuyển thành viên, xin tài trợ, họp hành tập huấn, thực hiện chương trình...
Đây chính là điểm mạnh nhất của trường Ams, làm cho trường thường xuyên được chọn làm nguyện vọng 1 cho các học sinh thi chuyên, trong đó có cả con trai lớn của tôi, khi cháu cùng đỗ chuyên Toán của 3 trường chuyên lớn nhất ở Hà Nội.
Có nên vào trường chuyên để đi du học?
Trường Ams là một trong các trường chuyên có tỷ lệ học sinh du học cao nhất cũng không thể quá 30%, như tôi ước tính một khóa con tôi vừa ra trường, vì chỉ có các lớp chuyên ngữ là tỷ lệ du học cao.
Các trường chuyên khác tại các thành phố lớn, tỷ lệ có thể tính chung lên đến 20%, chứ nếu tính cả các trường chuyên các tỉnh, tôi nghĩ con số chắc không quá 10%.
Ai nghĩ vào trường chuyên để dễ đi du học là quá nhầm! Đi du học nhiều nhất và thuận lợi nhất là học sinh học các trường quốc tế hay học hệ quốc tế.
Học sinh hệ quốc tế được học theo đúng phong cách học và kiểm tra, đánh giá của các nước có nền giáo dục tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp... sẽ dễ đi du học và dễ hòa nhập, thích nghi khi đi du học nhất.
Đó cũng chính là lý do con trai thứ hai của tôi đã chọn học ở một trường có hệ quốc tế mà con được học bổng toàn phần, chứ không thi chuyên như anh trai.
Hiện con lớp 10 đã thi được Toefl 105/120, SAT 1420/1600 (thuộc top 5% thế giới), căn bản xong yêu cầu vào Đại học Mỹ.
Vào trường chuyên, muốn đi du học sau này các em đồng thời phải học chương trình chuẩn Việt Nam và lo các yêu cầu quốc tế như chứng chỉ Ielts, Toefl hay khó hơn như SAT 1-2, ACT, AP...
Học sinh trường chuyên ra có đóng góp gì cho xã hội?
Tôi hay nghĩ đơn giản: Mỗi cá nhân tốt là một nhân tố làm nên một xã hội tốt.
Học sinh trường chuyên đa phần vào trường đại học top cao ở Việt Nam, thậm chí thế giới và ra đời cũng có em thành công (hay thành danh tùy quan điểm), cũng có em chỉ bình thường, tầm tầm trí thức chung.
Nếu bỏ qua kỳ vọng quá lớn từ học sinh chuyên, chúng ta không thể phủ nhận học sinh trường chuyên có mặt bằng chung đi làm tốt hơn, đại đa số nghề nghiệp ổn định hơn vừa do được đào tạo tốt cũng có, vừa do đã quen với việc phải “cày bừa” chăm chỉ cũng có.
Có khi được thế là tốt rồi, nếu so với những trường công thấp cùng khu vực?
Đội tuyển Vật lý Thiên văn 2018 gồm toàn học sinh Ams (Ảnh do tác giả cung cấp)
Ai được lợi?
Trường nào cũng có thể có chuyện nọ, chuyện kia, thậm chí có cả tiêu cực. Đôi khi tôi cũng thấy có những điểm chưa vừa ý với cả trường chuyên hay trường tư.
Nhưng căn bản, tôi nghĩ mỗi trường có những tiêu chí khác nhau, cách vận hành khác nhau, hướng tới những đối tượng khác nhau và tôi vẫn yêu quý cả hai ngôi trường đã góp sức dạy các con tôi.
Nhưng tôi thực sự phản đối cái ý tưởng một ngày nào đó cả hai gộp làm một, dù nó treo biển chuyên hay tư.
Hai kiểu trường đó đều cần, đều mang lại lợi ích cho từng đối tượng học sinh khác nhau.
Cuối cùng, xã hội vẫn là người được lợi, xã hội sẽ phát triển đa dạng và tiến bộ, vì không ai bị bỏ lỡ.
THÚY NGỌC
NẾU TỐN KÉM THÌ NÊN TƯ NHÂN HÓA HOẶC CỔ PHẦN HÓA TRƯỜNG CHUYÊN
THÙY LINH/ GDVN 29-6-2020
Những ngày gần đây xung quanh việc có nên tồn tại mô hình trường chuyên, học chuyên có nhiều quan điểm trái chiều.
Chia sẻ với Giáo dục Việt Nam, một nhà giáo (đề nghị không nêu tên), từng công tác tại Viện khoa học giáo dục Việt Nam đã nói về cơ sở thực tiễn hình thành lớp chuyên, trường chuyên.
Vào những năm 1964, 1965 của thế kỉ XX, nhận được sự quan tâm, đồng ý của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại học Tổng hợp đã thành lập lớp Toán đặc biệt đầu tiên năm 1965 mà sau này chúng ta quen gọi là “lớp chuyên”.
Giữa lúc cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ bước sang giai đoạn vô cùng khốc liệt trên cả hai miền Nam, Bắc, sự ra đời của lớp chuyên Toán đầu tiên đã chứng tỏ, việc đào tạo học sinh năng khiếu, học sinh giỏi đã được quan tâm đặc biệt.
Đặc biệt, kết quả thật không ngờ khi học sinh lớp chuyên đó đi dự thi Olympic Toán học, đây là lần đầu tiên Việt Nam dự thi và đạt kết quả ngoài sức tưởng tượng có huy chương vàng, nhiều huy chương bạc, đồng.
Nếu tốn kém thì nên tư nhân hóa hoặc cổ phần hóa trường chuyên (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa, nguồn: VTV)
Và từ cái mốc lớp chuyên Toán đầu tiên ấy, lúc đó người ta nghĩ đến việc nên chăng có thể đưa ra hình thức tổ chức, lớp học như thể để tập hợp những học trò ham học Toán vào cùng một lớp để giảng dạy.
Sau đó thành phố, địa phương, trường đại học đua nhau mở trường chuyên, hình thành hệ thống trường chuyên, không dừng lại ở trung học phổ thông mà phát triển ra cả ở bậc trung học cơ sở thậm chí tiểu học.
Trước tình hình hệ thống trường chuyên dày đặc như vậy, và có chiều hướng vận hành không đúng mục đích nên Trung ương Đảng đặt vấn đề xem xét lại.
Và cuối cùng ra Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trong đó nêu rõ “không tổ chức trường chuyên ở tiểu học và trung học cơ sở, trừ các trường năng khiếu về nghệ thuật và thể thao”.
Như vậy có thể thấy dù câu chuyện có nên tồn tại trường chuyên hay không đã được đưa ra thảo luận từ năm 1996 (tức là sau 32 năm hình thành, phát triển) nhưng Ban chấp hành Trung ương lúc đó vẫn quyết định cuối cùng là vẫn giữ trường chuyên ở bậc trung học phổ thông, chỉ bỏ trường chuyên ở bậc tiểu học, trung học cơ sở.
Dần dần, từ đó chúng ta xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
Và bồi dưỡng nhân tài bằng cách nào thì trường chuyên là một trong cách thức.
Tuy nhiên không phải mọi học sinh học trường chuyên ra trường đều là nhân tài nhưng ít nhất qua môi trường trường chuyên với điều kiện như vậy, tố chất như thế giúp xã hội có niềm tin rằng có thể em đó sẽ có khả năng trở thành nhân tài.
Nhưng sau đó hệ thống trường chuyên đã chen vào đó những hiện tượng tiêu cực, nếu như ở nước ngoài người ta gọi là trường năng khiếu tức là thấy học trò giỏi về lĩnh vực nào thì đào tạo sâu về lĩnh vực đó tuy nhiên ở ta thì tìm học trò giỏi ở bộ môn tức là chuyên Toán, chuyên Lý, chuyên Hóa, chuyên Văn, chuyên Sử…
Cứ như vậy đã hình thành hệ thống trường chuyên rất bề thế, đủ các khoa, đủ các môn.
Khi chỉ có môn Toán thì nhà trường chỉ cần đội ngũ giáo viên Toán dạy giỏi là được nhưng trên cơ sở khi học Toán không cần thiết bị gì thì khi có thêm Lý, Hóa thì hệ thống thiết bị thí nghiệm phải được trang bị từ đó đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải giỏi và trang thiết bị phải khác trường đại trà, cùng với đó là chế độ chính sách phải thay đổi.
Thầy giáo họ không thể dạy ở trường chuyên giống thể điều kiện cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ….như trường thường, buộc nhà quản lý phải đổi thay điều kiện trong nhà trường làm cho nó khác với các trường thường.
“Điều này không sai nhưng ta quản lý, vận hành trường chuyên làm người ta cảm thấy như biệt lập với hệ thống bên ngoài và cảm thấy người học ở đó được đối xử, được đào tạo trong hệ điều kiện khác với đa số. Đó chính là điều khiến nhiều người nghĩ tới công bằng xã hội”, nhà giáo này nêu quan điểm.
Ngoài ra, tuyển sinh đầu vào ở trường chuyên là khâu nhiều tiêu cực bởi nếu tuyển theo năng khiếu là chuyện rất khác, nhưng ở ta ai có điều kiện chuẩn bị cho con cái từ trước và có điều kiện chạy chọt đằng sau thì lại đỗ chứ những cháu thực sự có năng lực thì không được vào.
Thậm chí nhiều người cố "nhét" con bằng được vào trường chuyên để con đường đi du học nhanh hơn.
Điều này tạo nên sự bực bội, làm mờ đi mục đích cao cả ban đầu của trường chuyên, thậm chí làm cho vai trò trường chuyên bị biến dạng đi.
“Theo tôi, chủ trương phát triển, bồi dưỡng nhân tài để nhân tài phát triển là chủ trương đúng nhưng nhân tài phải bắt đầu từ năng khiếu tức là nhận ra năng khiếu, đào tạo năng khiếu, nâng niu năng khiếu để phát triển nó thì phải có điều kiện riêng, nhưng do ta không đi đúng tinh thần năng khiếu”.
Phàm là nhân tài thì tuyển chọn, đào tạo, phát triển là việc nhà nước nào cũng làm tuy nhiên họ có nguyên tắc để tuyển chọn chứ không như ở ta.
Học trò không em nào giống em nào từ quan điểm, hứng thú, sở thích… do đó chỉ có thể cào bằng ở một mức nào đó sau đó phải phân hóa để có điều kiện phát triển năng lực cho các em. Theo nhà giáo này, ở nước ngoài họ có nguyên tắc phân hóa học sinh theo 2 cách:
Một là, dạy đồng loạt trong lớp nhưng chú ý tới từng đối tượng học sinh: yếu, kém, trung bình, khá, giỏi. Tuy nhiên cách này thường khó.
Hai là tổ chức riêng những học sinh khá, giỏi và thấy cách này thích hợp, hiệu quả.
Do đó với chính sách bồi dưỡng nhân tài và phân hóa học trò thì trường chuyên có lí do để tồn tại.
Tuy nhiên, đừng nên đặt chuyện bán – buôn trường chuyên vì như vậy sẽ có cảm giác như nhân tài, tài năng bị mang ra chợ búa, hơn nữa, hệ thống trường chuyên tồn tại gần 6 thập kỉ đến nay thì chắc chắn phải có lý do hợp lý, nếu không đã bị dẹp lâu rồi.
Dù đúng là chưa công bằng nhưng nếu quản lý tốt đều có thể làm được khi có quan điểm đúng đắn về mục đích, đào tạo và đặc biệt ngăn chặn được tiêu cực.
“Giải tán trường chuyên hệ lụy rất lớn, tôi chắc không Bộ trưởng nào dám làm”, vị này nhấn mạnh.
Đến một lúc nào đó đòi hỏi rất cao trong đào tạo nhân tài từ đội ngũ giáo viên, trang thiết bị… thì hãy tư nhân hóa, cổ phần hóa bởi nếu ngân sách cứ cố giữ mà không trụ nổi thì cần có sự tham gia của các tầng lớp xã hội để đào tạo nhân tài.
Theo tìm hiểu của phóng viên Giáo dục Việt Nam, dù Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, đã khẳng định rõ là không có trường chuyên ở bậc trung học cơ sở tuy nhiên trong khi các trường trung học cơ sở công lập khác của Hà Nội đều tuyển sinh theo tuyến thì riêng trường trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam hệ trung học cơ sở được tuyển sinh toàn thành phố.
Việc tuyển sinh này không khác gì với hệ chuyên trung học phổ thông.
Trường trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam hệ trung học cơ sở được tuyển sinh toàn thành phố (Ảnh chụp màn hình)
Dù quy định và chính sách hiện hiện hành không công nhận trường chuyên lớp chọn ở bậc trung học cơ sở, nhưng xã hội và phụ huynh nghiễm nhiên mặc định "khối trung học cơ sở Chuyên Hà Nội - Amsterdam" đó là trường chuyên, tạo nguồn cho hệ chuyên cấp trung học phổ thông.
Ngày 17/3/2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản gửi các Sở Giáo dục và Đào tạo, yêu cầu chỉ đạo các trường tuyệt đối không tổ chức thi tuyển học sinh vào lớp 6.

Theo văn bản chỉ đạo, các cơ sở giáo dục thực hiện nghiêm túc việc “không tổ chức trường chuyên ở Tiểu học và Trung học cơ sở, trừ các trường năng khiếu nghệ thuật và thể thao”.
Thùy Linh
TRƯỜNG CHUYÊN: CÓ ĐÚNG MỌI NGƯỜI ĐỀU SINH RA CÓ QUYỀN BÌNH ĐẲNG ?
DOAN NGUYEN/LK/ BVN 3-7-2020

Hình ảnh lễ khai giảng ở trường chuyên Hà Nội - Amsterdam và điểm trường Tắk Pổ (Quảng Nam) năm 2019. Ảnh: VietNamNet/Tạp chí Bảo hiểm Xã hội. Đồ họa: Luật Khoa.
Hình ảnh lễ khai giảng ở trường chuyên Hà Nội - Amsterdam và điểm trường Tắk Pổ (Quảng Nam) năm 2019. Ảnh: VietNamNet/Tạp chí Bảo hiểm Xã hội. Đồ họa: Luật Khoa.
Tiến sĩ Kinh tế Nguyễn Đức Thành đã khơi lên một làn sóng tranh luận sôi nổi hiếm thấy về giáo dục, từ một bài đăng Facebook của mình vào ngày 18/6/2020.
TS Thành, một cựu học sinh chuyên Lý trường Hà Nội – Amsterdam, nêu quan điểm rằng các trường chuyên công lập nên được thay đổi theo hướng tư nhân hoá, hoặc kết thúc vai trò “chuyên” của nó để đưa về hoạt động như những trường công khác.

TS Thành đặt câu hỏi rằng, các trường chuyên công lập đang nhận được nguồn ngân sách lớn hơn gấp nhiều lần các trường công khác vì lý do gì, hay dựa trên nguyên tắc, chính sách nào. Ông đưa thêm một số lý do cổ súy cho việc thay đổi khối trường chuyên công lập bao gồm:
Trường chuyên là mô hình lấy của người giàu chia cho người nghèo, và nếu tiếp tục nó sẽ tạo ra những bất công truyền thế hệ, rằng “con vua thì lại làm vua, sư sãi ở chùa vẫn quét lá đa”;
Trường chuyên là nhu cầu xã hội, nhưng nó nên là mô hình trường tư như Olympia;
Tính “danh tiếng” và “đẳng cấp” của khối trường chuyên khiến cho khâu tuyển sinh trở thành cuộc đua không cân sức giữa học sinh thuộc gia đình giàu có với học sinh thuộc gia đình ở cấp bậc sau, khi mà, các gia đình giàu thường “chạy cùng con trên từng điểm số” với những bảng điểm toàn số 10, hoặc những giải thưởng chứng tỏ học sinh nhà giàu có năng khiếu; và cuối cùng
Khối trường chuyên đã hết vai trò lịch sử, xét trong mục đích sản xuất ra những “con gà nòi” để đi thi đấu quốc tế nhằm thể hiện hình ảnh quốc gia. Ngay cả trong mục tiêu đào tạo nhân tài thì các trường chuyên cũng đã không thực hiện được yêu cầu này vì không tồn tại bất cứ ràng buộc nào giữa học sinh trường chuyên với nghĩa vụ phụng sự Tổ quốc sau này – điều này được TS Thành nêu ra ở một bài đăng khác trong nhóm “Thảo luận cải cách trường Ams và hệ thống trường chuyên lớp chọn Việt Nam” trên mạng xã hội Facebook).
Cuộc thảo luận vẫn đang diễn ra với rất nhiều ý kiến, cả ủng hộ và phản đối đề xuất của TS Thành. Người viết nhận thấy rằng, các vấn đề được nêu lên từ cuộc thảo luận có ý nghĩa nhất định nhằm xác nhận lại, liệu rằng hệ thống giáo dục công của Việt Nam có đảm bảo những nguyên tắc và các quyền phổ quát về giáo dục hay không.
Do vậy, bài viết này xem xét sự tồn tại của khối trường chuyên công lập trong vai trò của nhà nước đối với việc đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục, và đặc biệt là sự liên hệ đến nguyên tắc bình đẳng trong các cơ hội tiếp cận giáo dục (Equality of Educational Opportunity).
Từ đó, người viết đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực (nếu có) từ sự tồn tại của các trường chuyên trong mối quan hệ với những bất bình đẳng xã hội bắt nguồn từ sự khác biệt về nền tảng gia đình (social background inequalities relating to family) đối với học sinh và xã hội nói chung.
Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Đức Thành. Ảnh: Chưa rõ nguồn.

Giáo dục công nên như thế nào?

Nếu cần phải tìm một hệ thống giáo dục làm hình mẫu để học hỏi kinh nghiệm cho sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam, có lẽ Phần Lan – quốc gia được đánh giá có hệ thống giáo dục chất lượng hàng đầu thế giới, nên là sự cân nhắc đầu tiên.
Hệ thống giáo dục của Phần Lan được xây dựng và vận hành dựa trên hai nguyên tắc nền tảng, bao gồm: (i) bình đẳng trong tiếp cận giáo dục là quyền hiến định, và (ii) đảm bảo sự tự do chọn lựa con đường học vấn của mỗi cá nhân.
Tuy vậy, thành tựu của Phần Lan không phải chỉ dựa trên những nguyên tắc tồn tại như kim chỉ nam này, mà còn có động lực vận hành khác, đó chính là thái độ của nhà nước trong việc xác định vai trò, ý nghĩa của giáo dục đối với sự phát triển con người, xã hội, đất nước. Chính phủ Phần Lan nhận thức sâu sắc rằng, quyền được tiếp cận giáo dục là một quyền con người phổ quát, như đã được UNESCO ghi nhận, do đó đã nỗ lực để phân bổ nguồn lực quốc gia hợp lý cho một nền giáo dục gần như hoàn toàn miễn phí.
Thực tế lịch sử và nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng, vì ý nghĩa vô cùng quan trọng của giáo dục đối với mỗi cá nhân và xã hội nói chung, nhà nước phải là chủ thể lãnh nhận trách nhiệm đảm bảo cho mỗi cá nhân đều được tiếp cận các cơ hội giáo dục, và phải đảm bảo cho họ có có sự tiếp cận các cơ hội giáo dục một cách công bằng.
Pháp luật về giáo dục công của Australia đã quy định rằng, “một hệ thống giáo dục công phải đảm bảo cung cấp dịch vụ cho cộng đồng và thu hút học sinh thông qua tính sẵn có, sẽ là hoàn toàn không phù hợp nếu học sinh phải tìm kiếm các cơ hội giáo dục trên thị trường. Chính phủ phải chịu trách nhiệm đối với giáo dục công và không cho phép tư nhân hóa lĩnh vực này…”; và “hệ thống giáo dục công phải đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội cho mọi trẻ em để phát triển khả năng một cách toàn diện, bất kể những trẻ em đó học ở ngôi trường nào. Điều này sẽ đạt được thông qua (i) chương trình đào tạo lành mạnh, (ii) nhận biết và giải quyết những bất lợi của học sinh; (iii) một sự cân bằng và hợp lý về số lượng giáo viên giỏi về chuyên môn và kỹ năng”.
Từ hai ví dụ này, có thể rút ra kết luận rằng:
Giáo dục công phải do nhà nước thực hiện (điều này không có nghĩa là không cho phép tồn tại giáo dục tư), bất kể nhìn từ chức năng nội tại của nhà nước hay tầm nhìn của nó đối với việc phát triển quốc gia như thế nào, nhưng nhà nước phải đảm bảo tính sẵn có đối với dịch vụ giáo dục cho mỗi cá nhân. Và, nhà nước thực hiện điều này thông qua chính sách giáo dục quốc gia và bằng ngân sách nhà nước.
Một chính sách giáo dục quốc gia phải đảm bảo thực thi các quyền con người phổ quát trong giáo dục, đặc biệt là sự bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội giáo dục nhằm hướng đến duy trì và phát triển sự công bằng xã hội.
https://www.luatkhoa.org/wp-content/uploads/2020/07/JPNT0056-1024x683.jpg
Học sinh trường chuyên Hà Nội – Amsterdam trong ngày khai giảng năm học 2019-2020. Ảnh: Tạp chí Bảo hiểm Xã hội.

Như thế nào là bình đẳng tiếp cận các cơ hội giáo dục để duy trì công bằng xã hội?

Trước khi trình bày như thế nào là bình đẳng tiếp cận các cơ hội giáo dục, người viết đồng ý với quan điểm rằng, con người sinh ra không bình đẳng. Bình đẳng chỉ là một giá trị mà con người nhận thức ra, xây dựng nên và theo đuổi.
Giả định rằng:
[1] Trường Ams là một cơ hội để được thụ hưởng giáo dục chất lượng cao mà nhà nước cung cấp. Tất nhiên đây là cơ hội dành cho tất cả mọi cá nhân, nhưng không phải mọi cá nhân đều có thể trở thành học sinh của Ams. Bởi lẽ, đây là cơ hội có giới hạn do nhà nước không đủ nguồn lực để phân bổ hàng loạt. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh và quá trình chọn lọc những cá nhân đạt yêu cầu tuyển sinh.
[2] Giả sử yêu cầu tuyển sinh của Ams là: (i) đánh giá kết quả kiểm tra đầu vào về kiến thức học thuật, tư duy logic, các kỹ năng mềm và năng khiếu, và (ii) kết quả học tập của các cấp độ học trước
[3] Được trở thành học sinh trường Ams là mục tiêu của rất nhiều học sinh, số lượng đăng ký vô cùng đông đảo, bao gồm các nhóm:
A: Những học sinh thuộc các gia đình giàu có và thường sống ở các thị trấn, thành phố lớn trên cả nước, thường cũng học chuyên từ cấp cơ sở và được bố mẹ cho đi học thêm, hoặc mời gia sư riêng về dạy tại nhà, hơn nữa còn được bổ trợ các môn năng khiếu như hội hoạ, ca nhạc… (tạm loại bỏ các yếu tố tiêu cực như “cùng con chạy điểm”);
B: Những học sinh thuộc các gia đình nghèo, hoặc có mức sống trung bình (thu nhập đủ chi trả cuộc sống hàng ngày), thường sống ở các vùng ngoại thành, thị trấn nhỏ, khu vực nông thôn, miền núi, và đương nhiên những học sinh này chỉ tham gia các lớp học tại trường.
Vậy, bao nhiêu phần trăm của nhóm A sẽ vượt qua thử thách tuyển sinh của Ams, và bao nhiêu phần trăm trong nhóm B?
Nếu tính “điểm giỏi” trung bình của nhóm A là 9,5, còn nhóm B là 7,5, thì lý do nào dẫn đến sự khác nhau này? là do nhóm A sinh ra đã có những khả năng giỏi bẩm sinh hơn nhóm B, hay do nhóm B sinh ra trong các gia đình nghèo? Sự hỗ trợ của phụ huynh đối với con em họ có phải là một loại bất bình đẳng đối với học sinh khác hay không, và có phải là một loại bất bình đẳng mà nhà nước nên tìm cách giải quyết hay không?
Tiếp tục giả định rằng, phần lớn học sinh khối trường chuyên đều giỏi (không quan trọng do bản năng, nỗ lực tự thân hay nhờ sự hỗ trợ toàn diện từ phía phụ huynh) và đều thành đạt trong xã hội sau này, thì liệu rằng một chính sách tuyển sinh như của Ams, dưới một chính sách thiếu cơ chế loại bỏ bất bình đẳng, bất lợi đối với những học sinh yếu thế như vậy, có tạo nên, hoặc thúc đẩy các giá trị xã hội nền tảng cần có như tính trung thực, lòng bác ái và cảm nhận công lý hay không?
Rõ ràng, bình đẳng sẽ không đương nhiên đảm bảo công bằng, nhưng một chính sách giáo dục hướng đến các giá trị công bình, văn minh thì bất bình đẳng chỉ nên xảy ra như những trường hợp hy hữu, ngoại lệ. Còn nếu, một chính sách tự nó đã chứa đựng sự bất bình đẳng thì chứng tỏ nhà nước thất bại trong nhiệm vụ cung cấp dịch vụ giáo dục công.
Cảnh người dân Mường Chà, Điện Biên đưa trẻ đến trường trong ngày khai giảng năm 2018. Ảnh: VOV.
Cảnh người dân Mường Chà, Điện Biên đưa trẻ đến trường trong ngày khai giảng năm 2018. Ảnh: VOV.

Bình đẳng về tiếp cận cơ hội giáo dục là gì?

Các học giả trong giới nghiên cứu đưa ra rất nhiều định nghĩa, khía cạnh và góc nhìn về bình đẳng cơ hội tiếp cận giáo dục (người đọc có thể tham khảo thêm các tài liệu nêu ở cuối bài).
Trong giới hạn phạm vi bài viết này, người viết chỉ xin đưa ra góc nhìn (mà người viết cho rằng) khả dĩ nhất để trả lời những câu hỏi nêu trên, đó là góc nhìn từ sự công bằng (Fair Equality of Opportunity), mặc dù việc áp dụng góc nhìn này có phải là sự hợp lý nhất hay không cũng vẫn còn là một sự tranh cãi lớn trong giới học giả nghiên cứu. Tuy vậy, những tranh cãi kiểu vậy là điều thường thấy, và là bản chất của nghiên cứu triết học hay các vấn đề xã hội, và nó không ảnh hưởng đến việc lựa chọn ra những khía cạnh phù hợp nhất để áp dụng cho vấn đề đang được nêu ra.
Khái niệm công bằng về bình đẳng cơ hội tiếp cận được triết gia người Mỹ John Rawls (1921 – 2002) nêu ra trong tác phẩm A Theory of Justice (Một lý thuyết về công lý) xuất bản năm 1971, được cho là một góc nhìn khá cơ bản và toàn diện khi đánh giá về tính công bằng trong sự bình đẳng về các cơ hội tiếp cận giáo dục.
Trong tác phẩm này, Rawls cho rằng “để đảm bảo tất cả mọi cá nhân đều được đối xử một cách bình đẳng và được bình đẳng về cơ hội, thì, những đối tượng có ít nguồn lực hơn (fewer native assets) và những đối tượng được sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn hơn (born into the less favorable social positions) phải được quan tâm nhiều hơn”.
Cụ thể hơn, theo quan điểm của Rawls áp dụng vào lĩnh vực giáo dục thì, trong vai trò cung cấp dịch vụ giáo dục công dựa trên nguyên tắc công bằng, nhà nước phải có chính sách giải quyết những bất công có tính chất kinh tế – xã hội (inequalities in social luck), như sự phân hóa giàu-nghèo, để những cá nhân có nền tảng gia đình giàu – nghèo khác nhau nhưng có tiềm năng giống nhau thì được hưởng cơ hội phát triển như nhau.
Tại sao người viết cho rằng, lý thuyết về sự công bằng của Rawls là khả dĩ nhất? Tại sao nhà nước phải giải quyết bất bình đẳng về nền tảng kinh tế xã hội (cũng là một loại bất bình đẳng tự nhiên), còn những bất bình đẳng tự nhiên khác (inequalities in natural luck) giữa cá nhân sinh ra đã giỏi và người kém hơn thì sao?
Suy cho cùng, giáo dục là để định hướng dẫn dắt mỗi cá nhân đi đến hoàn thiện con người cả về nhân cách và trí tuệ để họ có thể sống hạnh phúc, thành công, và có đóng góp giá trị đích thực cho xã hội. Điều này chỉ đạt được khi mọi cá nhân bước vào vạch xuất phát giống nhau, với những thử thách như nhau, thì các giá trị giáo dục mới được khai phá và mang lại hiệu quả.
Một gia đình giàu có và hạnh phúc, đó là thành công của bố mẹ, tức là vai trò của giáo dục đối với thế hệ bố mẹ (thế hệ F1) đã thành công và mang lại lợi ích cho họ, và xã hội. Nếu “giá trị thặng dư” (sự giàu có) của thế hệ F1 được đầu tư toàn bộ cho con cái (thế hệ F2) để những trẻ em này cũng thành công như/hoặc hơn bố mẹ chúng (thế hệ F1), và sau đó chúng lại tiếp tục đầu tư cho con cái đời sau (thế hệ F3) thì cái “giá trị thặng dư” của giáo dục chỉ phát triển một chiều, và thậm chí, những đầu tư như vậy còn kiềm chế các giá trị tự nhiên của giáo dục (đáng lẽ sẽ) xuất hiện trong mỗi đứa trẻ.
Nhưng nếu thay vì chỉ đầu tư cho F2, thế hệ F1 dành ra một phần “giá trị thặng dư” của mình để trợ giúp cho những người kém may mắn trong xã hội, chẳng hạn như bạn bè của F2, thì câu chuyện lại rất khác. Hình thức trợ giúp có thể là đóng nhiều thuế hơn, đóng góp làm từ thiện, tham gia công tác xã hội, v.v. Từ đó, họ giúp con cái F2 của những người khác có được cơ hội phát triển bản thân bình đẳng với con mình. Khi mọi đứa trẻ đã được bình đẳng về cơ hội rồi, thì sự thành công trong đời của chúng phụ thuộc vào nỗ lực của mỗi đứa trẻ. Đây là lúc chúng ta có thể nói: “Sướng hay khổ là do mình”.
Đó chẳng phải chính là giá trị đích thực của giáo dục hay sao? Việc đầu tư vừa đủ tạo điều kiện cho con được phát triển tự nhiên sẽ đặt mọi đứa trẻ vào cùng vạch xuất phát, đó chẳng phải là nguyên tắc của mọi cuộc thi hay sao? Và đó chẳng phải là cách tốt nhất để con người phát hiện ra tố chất thật sự của bản thân hay sao?
Quan trọng hơn, đây là điều mà con người có thể làm được nhờ nhận thức. Đối với những bất bình đẳng có tính chất tự nhiên (như trẻ em sinh ra đã có tài năng, hoặc tài năng trung bình, so với trẻ em yếu kém về trí tuệ) thì dù nhà nước có ưu tiên nguồn lực cho những người yếu hơn, thì cũng không thể chắc những đứa trẻ đó sẽ phát triển được như mong đợi. Đây là điều nằm ngoài khả năng nhận thức và tính hiệu quả.
Từ những điều đã trình bày, ta có thể kết luận rằng:
Giá trị giáo dục chỉ được phát huy nhờ sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận dựa trên nguyên tắc công bằng;
Một chính sách pháp luật công bằng trong tiếp cận các cơ hội giáo dục phải đảm bảo cho mọi cá nhân có năng lực như nhau (có thể nhận diện được) có cơ hội đạt được mục tiêu giống nhau, bất kể sự khác biệt về nền tảng gia đình, kinh tế, xã hội;
Nhà nước phải có chính sách giải quyết những bất công có thể nhận thấy và có nhiều khả năng thay đổi được.

Trường chuyên có làm gia tăng bất bình đẳng xã hội, hoặc các giá trị phản giáo dục?

Dù rằng đã nêu ra một lý thuyết về sự bình đẳng khả dĩ nhất để có thể gợi mở các giả định và câu hỏi được nêu ra, nhưng người viết cũng không thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho mệnh đề trên.
Điều này là bởi lẽ, đây không phải là vấn đề có thể nhận định dựa trên lý thuyết, mà nó đòi hỏi những nghiên cứu và khảo sát cụ thể để đi đến kết luận. Và nếu, dựa trên những quy định về chính sách và pháp luật của nhà nước đối với trường chuyên thì cũng khó để khẳng định, dù rằng, chính sách hiện tại không nhận biết và giải quyết sự bất bình đẳng về nền tảng gia đình, kinh tế, xã hội. Các quy định tại Luật Giáo dục năm 2019 mặc dù có các quy định về ưu tiên phân bổ ngân sách cho các khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo… nhưng không quy định rõ ràng về nguyên tắc bình đẳng trong tiếp cận cơ hội giáo dục.
Mệnh đề này được nêu ra, có lẽ, xuất phát từ tính “chìm” của tảng băng nổi – điều mà chúng ta khó nhìn thấy, nhưng lại có thể cảm nhận được dựa trên những sự thật rằng:
Hệ thống các trường chuyên đang tồn tại như một đặc quyền với nhiều ưu ái từ ngân sách nhà nước, và nó tồn tại như một niềm ao ước của nhiều học sinh, phụ huynh;
Hình ảnh trường chuyên và học sinh trường chuyên được ngưỡng mộ trong xã hội khi nhận thức rằng đó là cái tổ của những học sinh giỏi (học chuyên là giỏi), có con học trường chuyên thường được coi là vinh dự của gia đình;
Theo suy luận logic thì phần đông học sinh trường chuyên là con nhà khá giả trở lên do có điều kiện học thêm nhiều hơn, và do đó chứng tỏ được khả năng hơn (điều này có thể không chính xác, người đọc có thể liên hệ với những trường hợp xung quanh để tự nhận định);
Hiện tượng mua điểm, chạy trường chuyên, lớp chọn cho con của cha mẹ đang tồn tại ở Việt Nam như một tệ nạn xã hội … Với những thực tế và suy luận logic thì một câu trả lời về sự “tha hoá chính sách” có thể được rút ra, và những bất bình đẳng, đương nhiên, cũng có thể từ đó mà xuất hiện.
Vẫn biết rằng, sự khác biệt về nền tảng gia đình đã sớm được nhận biết là một nguyên nhân tạo nên bất bình đẳng xã hội. Việc giải quyết trên thực tế vẫn là thách thức lớn, bởi lẽ, ai có thể cấm, hay khuyên phụ huynh hãy ít đầu tư cho con cái đi?
Nếu có thể đưa ra một lời bình luận mang tính cá nhân, có lẽ tôi chỉ mong rằng, nếu ở đâu đó trong xã hội thực sự có chuyện mua điểm chạy trường, thì hy vọng các bậc phụ huynh hãy dừng lại điều đó. Hãy quan tâm, nhưng đừng sống hộ, hoặc sống ảo trên thành tích của trẻ em. Bởi lẽ, điều đó thật sự phản giáo dục, và nó thực sự huỷ hoại tất cả những gì tốt đẹp nhất mà hệ thống giáo dục, đặc biệt là khối trường chuyên (được cho là) đang tạo ra. Một đứa trẻ khi thấy bố mẹ chúng mua được sự dối trá, nó hoàn toàn có thể nghĩ bố mẹ chúng sẽ mua được cả xã hội.

D.N.

Tài liệu tham khảo:

Equality of Educational Opportunity“, Stanford Encyclopedia of Philosophy.
Kristen Meyer, 2016, “Why should we demand equality of educational opportunity?”, Theory and Research in Education, Vol. 14, No. 3, p. 333-347.
Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.
Nguồn: Luatkhoa
Ý KIẾN THIẾT THỰC CẦN LÀM NGAY CỦA MỘT GIÁO SƯ TRẺ
NGUYỄN THẾ YÊN/ BVN 3-7-2020

“Bỏ những bài tập khó ở tất cả các môn trong chương trình phổ thông” - Đồng nghĩa với việc xóa bỏ tất cả các trường chuyên, lớp chọn trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Thực tế nhiều năm qua, sự tồn tại của các trường chuyên, lớp chọn chủ yếu đạt được mục đích “chính trị” thỏa mãn bệnh thành tích là chính, không phải vì nó và chỉ có nó mới là nơi tạo ra những nhân tài cho đất nước.
Nhân tài là gắn liền với sản phẩm trí tuệ (sáng tạo) dù sản phẩm đó thuộc thể loại gì, lớn hay nhỏ. Muốn có sản phẩm sáng tạo, trước hết người sáng tạo ra sản phẩm phải được trang bị những kiến thức cơ bản và tổng hợp, được lớn khôn từ môi trường giáo dục cởi mở, trách nhiệm, tôn trọng cá tính, khuyến khích sáng tạo, không hình mẫu, định hướng hóa và cuối cùng không thể thiếu là chỉ số IQ cao.
Nhân tài cũng không thể có được cùng với các tiêu chuẩn khác của con người từ việc đốt tất cả thời gian công sức vào việc giải quyết hoặc luyện thi các bài tập khó để thi thố một cách thụ động, trong khi những kiến thức cơ bản thuộc về con người thì lại không thể nắm bắt nhất là khi các em đang ở độ tuổi vàng cho sự hình thành nhân cách.
Để tạo ra những thế hệ người Việt trẻ vừa có tài, có tầm, có tư chất của một người tử tế, ý thức làm chủ bản thân, làm chủ đất nước, biết thức tỉnh và dẫn dắt nhân quần, dứt khoát phải có một nền giáo dục theo hướng các nước văn minh đang làm mà cũng đúng với triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa trước 1975: “ Nhân bản, khai phóng và dân tộc”.
Việc học phải được bình đẳng và cơ bản, vấn đề còn lại là quyền tự do phát triển, phẩm chất sáng tạo và năng lượng vận động của cá nhân.
N.T.Y.
Nghĩ tiếp về "trường chuyên"
Vũ Thị Phương Anh
Có ai nghĩ rằng học sinh say mê môn học mà mình thích (môn chuyên) cũng là một kết quả giáo dục đáng ghi nhận không nhỉ?
Tôi thấy điểm yếu nhất của giáo dục phổ thông thời nay là bắt học sinh học quá nặng ở tất cả các môn mà không có thời gian để các em đào sâu, hiểu rõ và yêu thích môn học, dẫn đến kết quả là các em không thích bất cứ môn nào.
Trong kinh nghiệm của chính tôi - và lý thuyết giáo dục cũng đã khẳng định - thì những người có sự say mê trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng sẽ làm việc hết mình, sẵn sàng chia sẻ niềm đam mê với mọi người, và luôn tạo được những nhóm cùng làm việc với kết quả tốt. Có thể không phải cho riêng họ, nhưng những tác động tích cực đến cộng đồng nơi họ làm việc là rất rõ.
Đó chẳng phải cũng là một mục tiêu của giáo dục sao? Đâu cứ phải mọi thứ đều đo được bằng tiền mới là đáng kể? Mặc dù, thật ra cuối cùng những kết quả đó cũng sẽ quy được thành tiền thôi (ví dụ năng suất lao động tăng, giảm chi phí do tránh được những hao hụt, lãng phí hoặc hư hỏng do làm ẩu, làm cho xong để trả nợ quỷ thần chứ không phải vì lòng yêu nghề...).
Chẳng phải là Việt Nam đang rất thiếu những người thợ lành nghề, những giáo viên yêu nghề, những cô bảo mẫu yêu trẻ, những bạn trẻ say mê sáng tạo, những công chức tận tâm sao? Liệu chúng ta có được những người như vậy không, nếu khi còn là học sinh các em chỉ muốn kết thúc chương trình để thoát khỏi nhà trường càng sớm càng tốt?
Có ai muốn tranh luận với tôi về điểm này không nào?
V.T.P.A.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét