Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2018

20180608. HÃY CHỌN GIẢI PHÁP 'LÒNG DÂN LÀ Ý ĐẢNG'

ĐIỂM BÁO MẠNG
BỘ TRƯỞNG NGUYỄN CHÍ DŨNG : NHIỀU NGƯỜI HIỂU SAI VÀ CỐ TÌNH HIỂU SAI

ĐỖ THƠM /GDVN 7-6-2018

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng. ảnh: Trung tâm thông tin Quốc hội.

Trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội ngày 6/6, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - ông Nguyễn Chí Dũng đã có những chia sẻ xung quanh nhiều luồng ý kiến khác nhau về dự án Luật Đơn vị Hành chính Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc.
Trước nhiều ý kiến trái chiều về dự án luật cũng như nhiều đại biểu bày tỏ sự băn khoăn về dự án luật, ông Dũng khẳng định “Chúng ta phải lắng nghe đầy đủ ý kiến, phân tích đúng. Cơ quan soạn thảo, thẩm tra đã nói rất nhiều, quyền quyết định thuộc về Quốc hội”.
Trước phản ứng của dư luận lo ngại có thể có yếu tố Trung Quốc và dự luật cũng quy định cho thuê đất tới 99 năm, ông Dũng cho biết, trong dự thảo Luật không có một chữ nào về Trung Quốc ở trong đó.
“Chỉ có những người cố tình hiểu theo hướng đó và đẩy vấn đề lên, chia rẽ quan hệ ta với Trung Quốc.
Còn Luật quy định bình đẳng trong một môi trường chung, với tất cả thành phần kinh tế và với tất cả các nước. Môi trường hội nhập quốc tế ta đang mở nên bình đẳng hết, không hạn chế người này người khác.
Mọi người đang hình dung tiêu cực. Mọi người đang đẩy thành vấn đề sợ Trung Quốc, nhưng ta bình đẳng không phân biệt.
Không một ai có thể vào đây làm việc gì khi đất nước ta đang có chủ quyền, ta phải bình tĩnh, xem xét và lắng nghe”, ông Dũng nhấn mạnh.
Trả lời câu hỏi trước những ý kiến khác nhau, an soạn thảo có đề nghị rà soát các ý kiến về dự án Luật này không?
Ông Dũng cho biết, đến thời điểm này ban soạn thảo không có quyền đó, mà thuộc về Quốc hội. Theo quy trình làm luật, vòng 1 ban soạn thảo trình, vòng 2 là do cơ quan thẩm tra của Quốc hội.
Người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết, cơ quan soạn thảo bây giờ chỉ lắng nghe và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo thế nào thì làm theo, còn trình bày quan điểm thì cơ quan soạn thảo đã nói quá nhiều.
Theo ông Dũng, nhiều người đang hiểu sai và có người cố tình hiểu sai. Cái đúng thì các cơ quan phải cầu thị lắng nghe, tiếp thu chỉnh sửa. Cái gì chưa rõ thì giải trình, giải thích.
Chúng ta phải làm khách quan, không sau này lịch sử sẽ xem xét trách nhiệm.
Không phải cứ nói mà không suy nghĩ hay không tư duy. Còn nếu cái gì sợ thì không làm được.
Năm 1988, ở Thẩm Quyến – Trung Quốc khi làm đặc khu cũng có nhiều ý kiến, Đặng Tiểu Bình khi ấy đã nói “Thôi, hãy làm đi, không bàn nữa.
Năm 1992 lại rấy lên trào lưu có ý kiến, Đặng Tiểu Bình lại nói câu trên. Và bây giờ câu đó được khắc trên bia đá ở Thẩm Quyến.
Cái gì hay mình phải học, bất kể  là ai. Trung Quốc hay mình cũng phải học Trung Quốc. Chúng ta có chủ quyền có độc lập, có trí tuệ thì sao cái gì cũng sợ. Tôi cho rằng, phải chú ý lắng nghe nhưng đừng có quá sợ”.
Đối với phản ứng của dư luận đối với quy định cho thuê đất 99 năm ở đặc khu, ông Dũng cho biết việc điều chỉnh hay không không do Thường vụ Quốc hội quyết định.
Nếu có thể thì thiết kế điều kiện chặt chẽ hơn, thế nào là đặc biệt, thế nào là thật đặc biệt, thế nào mới được phép.
Một lần nữa trả lời câu hỏi một số đại biểu Quốc hội cảnh báo không đánh đổi quốc phòng an ninh với kinh tế, ông Dũng đặt lại vấn đề: Có ai đánh đổi không?
“Trong thiết kế luật không hề có chủ đích đánh đổi quốc phòng an ninh lấy kinh tế, không có điều nào nói về điều đó.
Đó là nguyên tắc số 1 khi thiết kế luật này, nguyên tắc số 1 phải đảm bảo quốc phòng an ninh.
Cái này chúng ta phải khách quan, công tâm, bình tĩnh, trí tuệ, bản lĩnh, không nên dẫn dắt sai dư luận, nếu không về sau sẽ có lỗi với lịch sử”, ông Dũng nhấn mạnh.
Đỗ Thơm

GIẢI PHÁP HỢP LÝ NHẤT: 'LÒNG DÂN LÀ Ý ĐẢNG"

TÔ VĂN TRƯỜNG/ BVN 8-6-2018

Đất nước ta đang có sự kiện rất nóng bỏng được người dân Việt Nam rất quan tâm đó là dự luật đặc khu kinh tế chuẩn bị được Quốc hội dự kiến bấm nút vào ngày 15/6 sắp đến. Lịch sử dân tộc chắc chắn sẽ ghi lại thời khắc thiêng liêng này.
Nhà nước ta là của dân do dân, vì dân. Xuất xứ câu nói “của dân, do dân, vì dân” thực ra là của Pericles, một nhà tư tưởng thời cổ đại trước Thiên Chúa giáng sinh, sau đó, được Tổng thống Mỹ và nhiều người khác nhắc lại.
Đối với một đất nước, một dân tộc thì đường lối, chính sách là bậc vĩ mô, “sai một ly sẽ đi cả dặm” do đó, các cấp lãnh đạo, giới chức sắc cần nghiêm túc và thật lòng khi thăm dò ý dân, hòa nhã nghiêm túc khi nghe người dân phản biện. Có lẽ chỉ có những người vô tâm mới có thể yên tâm trước thực trạng đất nước ta hiện nay. Chừng nào còn lương tâm, biết yêu, biết ghét thì làm sao mà yên tâm, mà tin yêu! Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói trước cử tri Hà Nội rất chính xác: “Mất lòng tin của dân là mất tất cả”. Suy rộng ra, mất dân là mất nước. Và khi đó học thuyết, thể chế này nọ còn nghĩa lý gì? Đừng quên dân đẻ ra chính quyền, và cả hệ thống chính trị này đều sống được là nhờ tiền thuế của dân.
Nghị sỹ là cương vị dân cử vào trong nghị trường để có chức năng nghị bàn, nghị luận, chất vấn, chứ đâu phải là chỉ cho đủ số, đủ chỗ và… “bấm nút” - kiểu “nghị gật”! Tấm gương về trí tuệ và bản lĩnh của các đại biểu Quốc hội các khóa trước như Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Quốc Thước, Phạm Thị Loan, Bùi Thị An đã được một số đại biểu Quốc hội đương chức khóa 14 tiếp tục thổi hơi thở của cuộc sống vào nghị trường như Dương Trung Quốc, Trương Trọng Nghĩa, Lê Thanh Vân, Nguyễn Anh Trí vv…
Nguyễn Trãi xưa đã từng nói: “làm lật thuyền mới biết sức dân như nước” - chí lý thay, khi ngồi chễm chệ, say sưa tựa mạn thuyền thì chỉ thấy nước… lăn tăn bợ đít thuyền thôi! Ngang dọc chỉ thấy thuyền chứ ai thèm biết gì đến nước! Nhưng, cái thứ nước êm đềm đó đã lật biết bao nhiêu triều đại trong lịch sử! Triều đại thì hiển nhiên là có thể hưng vong, nhưng dân tộc thì chỉ có thể thịnh suy chứ không thề vong được!
Đất nước này không phải là tài sản sở hữu riêng của nhóm lợi ích và những người cầm quyền. Những vấn đề kinh tế trọng đại, đụng tới quốc kế dân sinh, an ninh quốc phòng phải được công khai minh bạch trong cả nước và có sự đồng thuận, giám sát của cả nước. Trước hết, là phải tạo ra một cơ hội để cho tất cả công dân kể cả các nhà quản lý, các nhà lập chính sách và các nhà khoa học, cùng nhau thảo luận để có sự đồng thuận cao đáp ứng được lòng mong mỏi và kỳ vọng của nhân dân.
Chúng ta đã tốn không biết bao nhiêu là tiền của, công sức, thời gian để tổ chức học tập và làm theo tấm gương vĩ đại của Bác Hồ. Thực tế, người ta lại không làm điều đơn giản, thiết thực nhất theo lời dậy của Cụ Hồ “Dân chủ là làm sao cho dân mở miệng” (đừng làm dân sợ không dám mở miệng, càng không nên làm dân chán không thiết mở miệng).
VUSTA là tổ chức của các nhà khoa học có chức năng phản biện xã hội tư vấn và giám sát nhưng thực tế cũng phải hoãn không thể tổ chức buổi tọa đàm về dự luật đặc khu kinh tế vì những nguyên nhân khách quan? Tuy nhiên, các nhà khoa học trong các hiệp hội như Hội Khoa học Kinh tế VN, Hội Khoa học và Kinh tế biển, Hội Địa lý vv… cũng đã gửi thư chính thức đến lãnh đạo nhà nước có chung kết luận đề nghị tạm hoãn, dừng thông qua luật đặc khu kinh tế.
Hàng loạt các ý kiến của các chuyên gia có uy tín trong và ngoài nước kể cả các vị lão thành cách mạng băn khoăn lo ngại, về hàng loạt “lỗ hổng” trong dự thảo từ cơ sở pháp lý, mục tiêu, hiệu qủa kinh tế, an ninh quốc phòng, nhiều nội dung không phù hợp với thực tế, vv… thì lại được ông Bộ trưởng Bộ KHĐT Nguyễn Chí Dũng vô tình hay cố ý làm ngơ trước các chứng cớ lịch sử trong quan hệ giữa VN và Trung Quốc đã ‘loạn ngôn” khi trả lời phỏng vấn của báo chí về dự luật đặc khu kinh tế.
Chuyện Trung Quốc lấn lướt gây sức ép với VN ngoài Biển Đông (chiếm đất, chiếm đảo, xây căn cứ, đuổi khoan dầu, vẽ Đường lưỡi bò…) và trên các mặt trận chính trị, kinh tế, quốc phòng… là việc rõ như ban ngày, đứa trẻ con cũng biết. Dù có nói ra hay không, đây cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi người VN, trong đó có những người cầm quyền, chi phối mọi chính sách đối nội, đối ngoại.
Vậy mà trong phát biểu của mình, Nguyễn Chí Dũng làm như không biết. Vu vạ cho những người lo cho an ninh của Việt Nam là gây chia rẽ với Trung Hoa, sợ làm như vậy thì Trung Hoa mếch lòng, thật là một thái độ hồ đồ đến kỳ quặc và hết sức vô trách nhiệm. Ông viện dẫn về Đặng Tiểu Bình nhưng nên nhớ rằng đối với dân tộc Việt Nam họ Đặng là “tội đồ” vì phát động cuộc chiến tranh xâm lược biên giới 1979 gây biết bao tổn thất, đau thương mất mát cho nước ta.
Chung quy lại: Chắc chắn thời hạn cho thuê đất đến 99 năm sẽ bị loại bỏ trong dự luật. Điều mong muốn nhất của người dân trước hết, hãy cho tạm dừng thông qua luật đặc khu kinh tế còn đầy rẫy các “lỗ hổng”. Kinh nghiệm của nước ta và thế giới: một chính sách, một luật chỉ có thể thành công, thúc đẩy phát triển đất nước khi chính sách, luật đó có sự đồng thuận của dân. Đồng thuận càng cao, thành công càng càng lớn.
Ý kiến trong xã hội ta về luật đặc khu kinh tế còn quá phân tán, quá khác nhau, quá gay gắt… như hiện nay thì có thể khẳng định ngay Luật này chắc chắn sẽ thất bại ngay sau khi Quốc hội thông qua. Biết trước là thất bại, có nên ép Quốc hội thông qua không?”
Quốc hội khóa 13 có cú vấp chưa từng có trong tiền lệ lịch sử là thông qua bộ luật hệ trọng là luật hình sự mà chưa có hiệu lực đã phải ngưng để sửa vì phát hiện hàng trăm lỗi.
Trên tinh thần cùng nhau tìm cách làm tốt nhất vì lợi ích lâu dài của toàn dân tộc. Dự luật đặc khu kinh tế cần được hỏi ý kiến toàn dân theo Luật trưng cầu dân ý năm 2015.
T.V.T.
Tác giả gửi BVN.
LUẬT ĐẶC KHU: 'NHỮNG ĐIỀU SỈ NHỤC VÀ CĂM GIẬN'
QUÁCH HẠO NHIÊN/viet-studies 7-6-2018
“Một đất nước luôn có kẻ dẫn đường
Cho người ngoài kéo đến xâm lăng”
( Lưu Quang Vũ) 
  1. Lập pháp hay “dọn đường” cho ngoại bang?
Trước hết, phải khẳng định rằng, khi đặt ra câu hỏi trên đây bản thân tôi hoàn toàn không có ý “té nước theo mưa” mà tất cả đều trên cơ sở thực tế khách quan sau khi đã tìm đọc bản dự thảo “Luật đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” (gọi tắt là “Luật đặc khu” dự kiến được Quốc hội nước nhà xem xét thông qua trong kỳ họp lần này); cũng như tham khảo các ý kiến, phân tích đánh giá nhận định của các nhân sĩ trí thức, đặc biệt là các chuyên gia kinh tế trong đó có những người đang là thành viên của Tổ tư vấn kinh tế cho ông Nguyễn Xuân Phúc – Thủ tưởng Chính phủ hiện nay. Và như mọi người đã biết, về cơ bản hầu như tất cả các ý kiến của các chuyên gia đều thể hiện sự “thất vọng” và không đồng tình với bộ luật này vì nó không những non nớt về “kỹ thuật lập pháp” mà quan trọng hơn, với tôi còn là một sự “ngây thơ về chính trị” của những người soạn thảo. Điều này thể hiện rất rõ ngay trong tên gọi của Bộ luật và điều khoản ưu đãi về thời hạn cho thuê đất lên đến 99 năm. Thôi thì, những phân tích và nhận xét cụ thể các chuyên gia kinh tế, các nhân sĩ trí thức đã bàn nát nước rồi, ở đây tôi chỉ phân tích và nhấn mạnh thêm 2 điểm để minh chứng cho vấn đề mà tôi đặt ra là: phải chăng những người biên soạn ra dự luật này đang cố ý hay vô tình tiếp tay và “dọn đường” cho các thế lực ngoại bang đến xâm chiếm bờ cõi của cha ông?
Thứ nhất, tại sao bộ luật này lại có tên gọi dài ngoằng như vậy? Tại sao không phải là “Luật đặc khu về hành chính – kinh tế” cho ngắn gọn và khoa học mà phải nhấn mạnh và thêm vào 3 vị trí cụ thể là Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc giống như một cách chỉ định và áp đặt buộc phải làm đặc khu ở 3 địa điểm trên? Hay nói như PGS  TS Nguyễn Đức Thành là lẽ ra những người soạn luật chỉ nên tạo ra một bộ khung chung nhất về luật đặc khu, trong đó “đưa ra những yêu cầu, tiêu chí cơ bản để là “đặc khu” thì các vùng sẽ dựa vào các yêu cầu đó để đưa ra phương án triển khai, cam kết tài chính. Tỉnh nào, vùng nào đưa được đề xuất khả thi, tích kiệm ngân sách nhất, có thể chế sáng tạo, cam kết mạnh mẽ nhất, đề xuất được các phương án hấp dẫn hơn về kinh doanh thì tỉnh đó, vùng đó được chọn làm đặc khu...” [2] mà thôi. Ngôn ngữ phản ánh tư duy của, từ đây, theo tôi cái tên gọi dài ngoằng kia phải chăng không đơn thuần chỉ là do “lỗi về kỹ thuật hành pháp” mà rất có thể đằng sau đó còn có sự mờ ám nào khác? Nghĩa là, ngoài sự “ngây thơ về chính trị” của những người soạn thảo ra thì phải chăng còn có một “bàn tay nhám nhúa” của thế lực hắc ám nào đó thò vào để gây áp lực và chi phối để bộ luật này nhan chóng ra đời?
Thứ hai, có thể thấy từ khi dự luật về 3 đặc khu trên được các cơ quan truyền thông đưa tin cho đến hôm nay tuy có vô số những bài viết phản biện thể hiện sự chưa an tâm và không đồng tình của mọi tầng lớp nhân dân cả trên các phương tiện truyền thông chính thống lẫn phi chính thống (mạng xã hội) nhưng lạ lùng thay chẳng có một ai trong nhóm những người soạn thảo dự luật trên; hay những người chủ trương và quyết tâm cho ra dự luật trên viết bài tranh luận và đối thoại một cách nghiêm túc và khách quan để bảo vệ quan điểm và lý lẽ của họ. Trái lại, người dân chỉ được hồi đáp ngắn gọn bằng những ý kiến mang tính mệnh lệnh, áp đặt và nhất là quy chụp lại ý kiến của những người phản biện và không đồng tình. Cụ thể, bà đương kim Chủ tịch Quốc hội thì cho rằng “Bộ chính trị đã quyết rồi nên phải bàn để ra luật”, còn ông Phó Chủ tịch thì hùng hồn bảo ra luật để “dọn ổ cho Phượng hoàng đến đẻ trứng” (và chỉ nói vậy thôi mà không biết “Phượng hoàng” ở đây là ai, “trứng” của nó đẻ ra dân mình có được hưởng không?). Riêng ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư thì hầm hố hơn khi không ngần ngại bảo những người phản đối luật đặc khu là “nâng quan điểm”“đẩy vấn đề lên”  nhằm “phá hoại” và “chia rẽ mối quan hệ của ta với Trung Quốc”... Và tuy miệng ông bảo toàn dự thảo luật không có một chữ nào nói về Trung Quốc nhưng tâm và trí ông lại hướng về đến mô hình đặc khu Thẩm Quyến, đặc biệt là câu nói của Đặng Tiểu Bình (kẻ đã xua 20 vạn quân sang sát hại đồng bào ta vào năm 1979): “hãy làm đi không bàn nữa!”. Đây là gì nếu không phải là sự trí trá và xảo ngôn của ông Bộ trưởng? Chưa hết, sự trí trá và xảo ngôn ấy còn thể hiện rất rõ khi trong mục 4 điều 55 của dự luật là một sự lươn lẹo, cố tình tạo ra sự mập mờ về chữ nghĩa: thay vì nói “công dân nước bạn Trung Quốc” thì lại dài dòng rằng “công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại Quảng Ninh...” Tại sao lại như vậy? Tại sao phải vòng vo, lươn lẹo chữ nghĩa nếu thâm tâm mình trong sáng?
Như vậy, thêm một lần nữa, có thể nói phải chăng đằng sau tất cả những phát ngôn kia chính là một tâm thế và thái độ vừa độc đoán vừa bảo thủ và duy ý chí của những người tạo ra nó. Vì thà rằng các vị không nói gì hết nhưng một khi đã nói và nói như thế thì có khác gì đang tự đưa tay lột cái mặt nạ mỵ dân của chính mình xuống? Hãy tự vấn lại xem, ông Bộ trưởng luôn miệng bảo nguyên tắc xây dựng luật là lấy sự an nguy về an ninh quốc phòng làm tiêu chí số 1 nhưng trên văn bản thì lại “cài cắm” (chữ dùng của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan) những con chữ, những điều khoản rất bất lợi cho quê hương, dân tộc (như đề xuất cho thuê đất lên đến 99 năm). Thử hỏi làm như thế thì có khác gì tự đi mua dây về để trói mình? Không dừng lại ở đó, việc cho thành lập đặc khu lần này chỉ là một sự “thể nghiệm” hay “vừa làm vừa rút kinh nghiệm” vậy mà lại dám chỉ định hẳn 3 vị trí quan yếu về quốc phòng an ninh trải dài khắp 3 miền của đất nước là nghĩa làm sao? Ông Bộ trưởng và những người đang nắm vận mệnh quốc gia dân tộc hôm nay muốn “thể nghiệm” hay “rút kinh nghiệm” gì mà lại quyết định như vậy? Và khi người dân không đồng tình thì bảo rằng họ “phá hoại” vàchia rẽ quan hệ của ta với Trung Quốc”?
Đến đây, có thể khẳng định chính sự không minh bạch của những người chịu trách nhiệm xây dựng luật đặc khu trước và trong quá trình soạn thảo; đặc biệt là việc nói một đằng nhưng làm một nẻo lâu nay của những người lãnh đạo đất nước nên dân chúng giờ đây đã dần cạn kiệt niềm tin. Thế nên, việc người dân hoài nghi và đặt vấn đề: những người quyết tâm cho ra bộ luật này vì ngu, vì tham hay vì hèn nhát mà vô tình hoặc cố ý dẫn đường, “dọn ổ” cho ngoại bang đến xâm lấn bờ cõi cha ông bằng một bộ luật cẩu thả âu cũng là lẽ đương nhiên và tất yếu!
  1. “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” - tất cả đều không thỏa mãn
Người Việt có quan niệm “đầu xuôi đuôi lọt”. Hay một công việc, một dự án nào đó muốn thành công mĩ mãn thì cần thỏa có 3 yếu tố quan trọng đó là: “thiên thời, địa lợi và nhân hòa”. Nhìn lại câu chuyện liên quan đến việc thành lập các đặc khu hôm nay có thể thấy cả 3 yếu tố trên về cơ bản đều không thỏa mãn.
Trước hết, về thiên thời: theo như các chuyên gia kinh tế đã phân tích rất cặn kẽ thì việc phát triển kinh tế với tư duy đặc khu là một hướng đi, một mô hình đã lỗi thời và không còn phù hợp trong xu thế hiện nay (ngay ông Nguyễn Xuân Phúc cũng thừa nhận Việt Nam mới làm đặc khu là đã quá trễ). Thời gian qua trên thế giới, có rất nhiều nước đã thất bại với mô hình này. Vì vậy, theo các chuyên gia thì khả năng thành công của Việt Nam với mô hình này với 3 đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc là không cao.
Tiếp theo, về địa lợi: việc dự thảo luật cho phép (chỉ định) thành lập 3 đặc khu ở 3 vị trí nhạy cảm về an ninh quốc phòng của đất nước là một điều rất kỳ quặc. Cho dù ông Nguyễn Chí Dũng và những người có trách nhiệm khác luôn miệng bảo rằng việc đảm bảo an ninh quốc phòng là nguyên tắc hàng đầu nhưng tất cả nói cho cùng vẫn không có gì đảm bảo vì thực tế hiện nay cho thấy với cái tham vọng bành trướng cũng như cái “gen xâm lược” ngàn đời, chúng ta rất dễ rơi vào bẫy của “con cáo già” thâm hiểm và quỷ quyệt Trung Quốc” hôm nay.
Cuối cùng, về nhân hòa: Đây là điều mà ai cũng thấy, hầu như đa phần người dân có hiểu biết và còn quan tâm đến tương lai vận mệnh quốc gia dân tộc đều cảm thấy hoang mang và lo lắng nếu như Luật đặc khu được quốc hội lần này thông qua. Một khi người dân đã không đồng thuận mà vẫn cố làm thì cũng không nên nói hoài về sự hòa hợp giữa “ý Đảng, lòng dân”.
  1. Quyền của Dân và cơ hội của Đảng
Còn nhớ trước đây khi còn tại vị cũng với chức vụ Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Sinh Hùng khi ấy có nói một câu “bất hủ” rằng: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu chứ kỷ luật ai!” [3]. Nhắc lại câu nói với tư duy “sơ đẳng” và hài hước trên, tôi muốn liên hệ với thực tế về câu chuyện đặc khu hôm nay. Và thật lòng, tôi thấy vô cùng hoang mang và lo lắng vì vài hôm nữa thôi, nếu bộ luật này được gần 500 vị đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua; và sau đó sự “thể nghiệm” 3 đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc thất bại thảm hại thì có lẽ nào lại chẳng có một cá nhân nào trong gần 500 con người kia chịu trách nhiệm hay sao? Tôi lại tự hỏi, còn gì lố bịch và phản văn minh, phản tiến bộ hơn nếu cái nghịch lý ấy thật sự xảy ra trên đất nước mình trong thời đại “cách mạng công nghiệp 4.0” hôm nay?
Có lẽ nào, một xã hội, một đất nước mà các quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của người dân được ghi rất rõ ràng trong Hiến pháp nhưng trên thực tế hễ cá nhân nào có tiếng nói khác với Đảng và chính quyền về vấn đề nào đó thì ngay lập tức bị quy là “thế lực thù địch” hay “phản động”, “phá hoại”, xuyên tạc, nói xấu đảng và Nhà nước. Đã vậy, tiếng nói của họ không những không được lắng nghe mà trái lại khi hậu quả xảy ra thì trách nhiệm kia họ cũng phải tự gánh chịu luôn!
Ở phương diện khác, nếu nhìn vấn đề ở khía cạnh tích cực nhất thì theo tôi những người lãnh đạo trong bộ máy của Đảng và chính quyền hôm nay cần phải cảm ơn những người dân lên tiếng phản đối dự luật đặc khu thời gian qua. Bởi lẽ, sự phản đối này của người dân ít nhiều cho thấy cái hồng phúc của dân tộc này vẫn còn; và hơn nữa đó còn là một sự may mắn cho Đảng và Quốc hội hôm nay (vì có điều kiện và cơ hội nhìn lại những việc làm của mình).
Người xưa nói, “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Hay “một người lo bằng một kho người làm”. Thế nên, những ngày qua, những ai lên tiếng phản biện hay thậm chí chỉ trích bản dự thảo về Luật đặc khu này thì trước hết đó là sự thể hiện quyền và trách nhiệm công dân của họ. Bên cạnh đó, có thể nói, nếu người dân không còn thiết tha, không thèm quan tâm, hoặc giả như họ thấy không cần phải có trách nhiệm gì với quốc gia dân tộc thì chắc chắn họ đã không phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt như thế (nói như ông Nguyễn Xuân Phúc là có “một làn sóng phản đối khủng khiếp”).
Hay nói khác đi, nếu người dân ai cũng im lặng và không chịu mở miệng nói hết những suy nghĩ thật trong đầu họ để chính quyền biết thì đó mới thật sự là điều đáng để lo. Cho nên, mọi sự phản đối của người dân những ngày qua một lần nữa cũng chính là lời khẳng định cho chân lý “đẩy thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân”. Một khi đã nói “Đảng là người đầy tớ trung thành của nhân dân”, hay “Quốc hội là đại biểu cho tiếng nói của nhân dân” thì thiết nghĩ, những người có trách nhiệm trong bộ máy công quyền không được quyền tùy tiện chụp mũ chính trị người dân này nọ. làm như vậy không chỉ là đang xúc phạm, coi thường mà còn là sự vô ơn đối với họ. Đặc biệt là với các nhân sĩ trí thức dù đang ở độ tuổi “gần đất xa trời” nhưng vẫn theo dõi, tìm hiểu vấn đề để sau đó viết “tâm thư”, gửi kiến nghị bằng tất cả những lời lẽ chân thành và thống thiết...
  1. Thay lời kết
Trong bài trả lời phỏng vấn gây bức xúc dư luận (được các cơ quan báo chí chính thống đồng loạt đăng tải ngày 6/6/2018), ông Nguyễn Chí Dũng có nhắn gửi với những lên tiếng phản đối luật đặc khu rằng “chúng ta cần phải học hỏi những điều hay của Trung Quốc”. Hay: “nếu làm đặc khu mà cái gì cũng sợ thì không nên làm”. [4]
Rất đồng ý với ông Dũng về quan điểm trên nhưng có lẽ cũng cần phải nói rõ với ông rằng: không phải đợi đến những “lời vàng ngọc” kia của ông thì các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế hay các nhân sĩ trí thức nước nhà mới hiểu vấn đề như vậy.
Ngoài ra, nếu ông Nguyễn Chí Dũng và những lãnh đạo cấp cao nước nhà thật sự cầu thị và lắng nghe sẽ thấy có một thực tế không thể chối cãi là qua công cuộc chống tham nhũng hiện nay đã cho thấy Đảng ta hoàn toàn không phải là thần thánh như lâu nay nhiều kẻ vẫn tung hô và ảo tưởng; không phải Đảng ta lúc nào cũng “tài tình và sáng suốt” trong lãnh chỉ đạo dân tộc và đất nước. Những bài học về các dự án khái thác Bauxite ở Tây Nguyên và xây dựng nhà máy thép ở Formosa vẫn còn sờ sờ ra đó. Hay như trên thực tế có không ít những kẻ là Đảng viên từng giữ các chức vụ rất cao trong bộ máy công quyền lại là những kẻ rất tham lam và xấu xa. Chính những kẻ này – những kẻ như Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Xuân Anh, Phan Văn Anh Vũ (hay sắp tới đây rất có thể sẽ còn rất nhiều nữa) - đã làm cho quốc gia dân tộc ngày một khánh kiệt và không ngóc đầu lên nổi...
Dẫn ra những thực tế trên để thấy rằng, giá như trước đây Đảng chân thành lắng nghe những lời can ngăn và cảnh báo từ các tầng lớp nhân dân đặc biệt là những nhân sĩ trí thức chân chính thì chắc chắn đã hạn chế rất nhiều những sai lầm. Không những vậy, nếu Đảng thật sự biết lắng nghe, thực sự vì dân vì nước và nhất là biết đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên lợi ích của Đảng thì có lẽ giờ đây Việt Nam đã “sánh vay cùng các cường quốc năm châu” từ rất lâu rồi chứ không phải như hôm nay đang ì ạch tìm cách xây dựng các đặc khu mà theo nhiều chuyên gia đã trở nên lỗi thời và không còn phù hợp;...
Hay nếu Đảng biết lắng nghe thì xã hội và con người Việt Nam hôm nay có lẽ không còn phải nhục nhã và xấu hổ mỗi khi nhớ lại những lời tiên tri của cố nhà thơ Lưu Quang Vũ cách nay hơn có hơn 40 năm trong bài “Những điều sỉ nhục và căm giận”dưới đây:
“Một đất nước luôn có kẻ dẫn đường
Cho người ngoài kéo đến xâm lăng
Cho những cuộc chiến tranh
Đẩy con em ra trận!
Những điều sỉ nhục và căm giận
Một xứ sở
Nhà tù lớn hơn trường học
Một dân tộc có nhiều gái điếm nhất thế giới
Có những cái đinh để đóng vào ngón tay
Có những người Việt Nam
Biết mổ bụng ăn gan người Việt!
Một đất nước
Đến bây giờ vẫn đói
Không có nhà để ở
Không đủ áo để mặc
Ốm không có thuốc
Vẫn còn những người run rẩy xin ăn!
Nỗi sỉ nhục buốt lòng
Khi thấy mẹ ta bảy mươi tuổi lưng còng
Phải làm việc mệt nhoài dưới nắng
Khi thấy lũ em ngày càng hư hỏng
Khi người mình yêu
Nói vào mặt mình những lời ti tiện
Khi bao điều tưởng thiêng liêng trong sạch
Bỗng trở nên ngu xuẩn đê hèn...” 
------------------
Nguồn tham khảo:
[1]: “Dự thảo “Luật đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”. Xem tại:  https://m.thuvienphapluat.vn/cong-van/bo-may-hanh-chinh/luat-don-vi-hanh-chinh-kinh-te-dac-biet-2017-340180.aspx
[2]: Nguyễn Đức Thành - “Chúng ta làm luật đặc khu với tư duy con nhà nghèo”. Xem tại:http://danviet.vn/kinh-te/chung-ta-dang-lam-luat-dac-khu-voi-tu-duy-con-nha-ngheo-882494.html
[3]: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai dân chịu”. Xem tại: http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/qh-la-dan-dan-quyet-sai-dan-chiu-chu-ky-luat-ai-169988.html
[5]. Nguyễn Quang Dy – “Nghịch lý về đặc khu kinh tế”. Xem tại: http://www.viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_NghichLyDacKhu.html
[6]: “Nhà báo Đoàn Bảo Châu phỏng vấn kinh tế gia Phạm Chi Lan về Dự luật đặc khu”.Xem tại: http://www.viet-studies.net/kinhte/BaoChau_pv_ChiLan.html
[7]: Lê Ngọc Sơn – “Thử nghiệm thể chế và hai câu hỏi lớn”. Xem tại: http://nguoidothi.net.vn/thu-nghiem-the-che-va-hai-cau-hoi-lon-14009.html
[8]: Trương Trọng Nghĩa – “Luật đặc khu và mối lo chủ quyền”. Xem tại:http://nguoidothi.net.vn/luat-dac-khu-va-moi-lo-chu-quyen-13988.html
[9]: “Vì sao đặc khu vẫn chỉ là “lối cũ ta về”. Xem tại: https://tuoitre.vn/vi-sao-dac-khu-van-chi-la-loi-cu-ta-ve-20180604100413464.htm
Cần Thơ, 7/6/2018
Q.H.N
 Tác giả gởi cho viet-studies ngày 7-6-18

ĐẶC KHU, NHÌN TỪ GÓC ĐỘ ƯU ĐÃI THUẾ

TƯ GIANG/ TVN 8-6-2018

Đặc khu kinh tế,Vân Đồn,Bắc Vân Phong,Phú Quốc,Casino,Cuộc đua xuống đáy,Ưu đãi thuế
Đảo ngọc Phú Quốc. Ảnh: Lê Anh Dũng
 - Liệu ba đặc khu có trở thành cực tăng trưởng mới cho đất nước xét từ góc độ ưu đãi thuế.
Hôm nọ dự hội thảo nhằm cổ vũ về kỳ vọng phát triển ba đặc khu kinh tế, tôi rất ngạc nhiên với một nhận xét của kinh tế gia trưởng Ngân hàng Thế giới Sebastian Eckardt. Ông nói: “Việt Nam xây dựng ra và làm nhiều đặc khu kinh tế khác nhau, điều này có thể khởi động những “cuộc đua xuống đáy” của chính sách ưu đãi”. Ông giải thích, lẽ ra Việt Nam nên đưa ra những chính sách bằng nhau để tạo môi trường kinh doanh công bằng trên toàn quốc, thay vì chỉ áp dụng những ưu đãi cho riêng ba đặc khu này.
Lời cảnh báo “cuộc đua xuống đáy” bất chợt làm tôi nhớ lại câu chuyện cách đây 13 năm dưới thời Thủ tướng Phan Văn Khải. Năm 2005, ông Khải đã phải làm một việc chưa có tiền lệ là ra văn bản cảnh cáo lãnh đạo của 33 tỉnh thành vì họ đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi về hỗ trợ tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, hỗ trợ đầu tư... vượt khung luật pháp hiện hành.
Vì sao Thủ tướng lại phải thổi còi? Chẳng nhẽ ông không muốn tạo thuận lợi cho doanh nghiệp? Thực ra, ông Khải muốn chống lại một “cuộc đua xuống đáy” của các địa phương với nguy cơ hiện hữu là Nhà nước thất thu thuế, làm mất bình đẳng trong môi trường kinh doanh nói chung, gây chảy máu dòng vốn từ địa phương này sang địa phương khác để hưởng ưu đãi và chính sách kinh tế tổng thể của quốc gia bị phá vỡ.
Trở lại dự thảo Luật đặc khu, tôi băn khoăn một số điểm có thể lặp lại những bài học như trên. Dự thảo đề xuất một loạt các chính sách ưu đãi vượt trội so với các quy định hiện hành. Chẳng hạn, kéo dài thời gian áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10% lên tới 30 năm, đồng thời mở rộng diện áp dụng sang các dự án trong các ngành nghề ưu tiên phát triển của từng đặc khu và dự án đầu tư của nhà đầu tư chiến lược.
Theo quy định pháp luật hiện nay, mức ưu đãi cao nhất về thuế TNDN đối với một số lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư đang được áp dụng tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao là áp dụng mức thuế ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm, miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo.
Dự thảo còn các quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân với mức ưu đãi mở rộng. Bên cạnh đó,  các doanh nghiệp bất động sản cũng thuộc diện ưu đãi đầu tư tại các đặc khu này.
Dự thảo cũng đề cập rất đậm về những ưu đãi cho nhà đầu tư chiến lược. Ví dụ, các dự án đầu tư khu dịch vụ, du lịch và vui chơi giải trí tổng hợp có casino với quy mô vốn đầu tư tối thiểu 45.000 tỷ đồng của các nhà đầu tư chiến lược.
Hiện nay, tại ba đặc khu dự kiến đã và đang tiếp nhận rất nhiều các dự án đầu tư khu du lịch, dịch vụ có quy mô lớn trong khi chưa hề có một ưu đãi đầu tư nào. Vậy thì việc đưa các dự án này vào danh mục ưu đãi đầu tư ưu tiên cao nhất có cần thiết không? Vì sao lại phải ưu đãi với các dự án bất động sản?
Đối với các casino, trở ngại lớn nhất trong thời gian qua chính là quy định về việc người Việt Nam có được phép vào casino hay không chứ không phải là ưu đãi thuế. Như vậy, nếu đặt ra ưu đãi nhưng không cho phép người Việt Nam vào casino thì cũng không thể thu hút các dự án casino; và ngược lại nếu đã cho người Việt vào casino thì ưu đãi trở thành thừa và gây lãng phí. Bên cạnh đó, dự thảo luật đề xuất thời hạn sử dụng đất tối đa 99 năm cho một số dự án đặc biệt nhưng lại không có tiêu chí cụ thể khi cấp đất cũng như chế tài để thu hồi đất với những dự án kém hiệu quả.
Với quy mô các dự án chiến lược nêu trên, có thể nói đại đa số nguồn vốn đầu tư trong tương lai tại các đặc khu sẽ đến từ các dự án của các nhà đầu tư chiến lược. Với những ưu đãi miễn, giảm, ưu đãi hết cỡ như trên, liệu Việt nam sẽ thu được gì? Trong khi đó, dự thảo cho phép chính quyền đặc khu được bội chi đến 70% số thu ngân sách trên địa bàn thì liệu thu có đủ chi?
Bên cạnh đó, với những ưu đãi vượt trội này các địa phương khác trên cả nước trở nên hoàn toàn bất lợi trong việc thu hút các nhà đầu tư trong các lĩnh vực tương tự. Như vậy, ngoại trừ lĩnh vực casino, một khả năng lớn là các nhà đầu tư tiềm năng sẽ bỏ các địa phương còn lại để tập trung vào 3 đặc khu. Xét về tổng thể, môi trường kinh doanh của quốc gia sẽ trở nên không còn công bằng.
Liên quan đến đất đai, dự thảo quy định, các tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng, sở hữu nhà ở thương mại và dự án bất động sản nghỉ dưỡng từ các tổ chức cá nhân trong nước. Đây là điều làm tôi rất suy nghĩ vì trong các trường hợp này là vĩnh viễn, không có giới hạn về thời gian và số lượng.
Dù đất đai là “sở hữu toàn dân” nhưng làm sao “thu hồi” được khi họ đã mua nhà, xây nhà trên đất ở các đặc khu tương lai? Điều này là rất đáng quan tâm vì cả 3 đặc khu dự kiến đều có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng. Tôi nghĩ, lẽ ra phải quy định chặt chẽ để lường trước vấn đề an ninh, chủ quyền quốc gia.
Tháng 12/2017, Việt Nam đã bị EU liệt kê vào Danh sách xám gồm 46 quốc gia bị theo dõi về vi phạm thuế. Một trong những lý do là Việt Nam bị cho là có những ưu đãi thuế có hại trong các khu chế xuất. Dự thảo Luật đặc khu đưa ra những quy định ưu đãi còn vượt quá cả các nội dung trước đó áp dụng với các khu chế xuất. Liệu chúng ta có đối diện với nguy cơ bị chuyển từ  Danh sách xám lên nhóm các nước thuộc Danh sách đen với các biện pháp giám sát chặt chẽ về thuế và thương mại hay không?
Mong muốn, kỳ vọng biến ba đặc khu dự kiến là Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc trở thành cực tăng trưởng mới là rất chính đáng trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Bên hành lang Quốc hội sáng 6/6, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định, ưu đãi thuế đã không còn nhiều. Song, những ưu đãi như vậy cũng cần suy tính, thảo luận thêm, đặc biệt trong bối cảnh có tới 85% doanh nghiệp FDI được khảo sát cho biết họ không cần ưu đãi thuế.
Tư Giang
ĐẶC KHU KINH TẾ 99 NĂM -MỘT BƯỚC ĐI GẤP GÁP THEO LỘ TRÌNH THÀNH ĐÔ ?
PHẠM ĐÌNH TRỌNG/ BVN 8-6-2018

PHẦN MỘT: ĐẶC KHU KINH TẾ KHÔNG CÒN CẦN THIẾT VỚI VIỆT NAM

Đặc khu kinh tế ra đời ở những nước chưa phát triển, chưa có nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Nền sản xuất công nghiệp hiện đại là vốn tư bản, công nghệ tư bản, thị trường tư bản, một thị trường toàn cầu, không biên giới và con người tư bản, những ông chủ của nền sản xuất đó. Chưa phát triển là nói tránh cho đỡ tủi thân chứ thực sự là nước nghèo, thiếu thốn đủ thứ, đói khát đủ thứ. Đói vốn. Đói công nghệ. Đói thị trường toàn cầu. Đói khát cả cung cách làm ăn của những con người công nghiệp. Chỉ có đất tự nhiên đang chìm đắm trong giấc ngủ ngàn năm và sức lao động thừa thãi, rẻ mạt.
Trong khi đó những ông chủ tư bản ở những nước phát triển lại đang có nhu cầu phủ đồng vốn, phủ hoạt động kinh doanh, phủ thị trường ra cả thế giới và tìm kiếm, khai thác sức lao động đang dư thừa ở những nước nông nghiệp dân cư đông đúc trên khắp thế giới.
Hai nhu cầu này gặp nhau như cô gái con nhà nghèo có chút nhan sắc đến tuổi cập kê gặp chàng trai có sự nghiệp đang muốn kiếm vợ. Đặc khu kinh tế ra đời từ đó.
Thời hệ thống cộng sản thế giới tan rã. Bức màn sắt bưng bít thế giới cộng sản bị thời đại, bị lịch sử xé toang như bức tường bê tông ngăn đôi đông tây Berlin, nước Đức, bị phá bỏ. Không còn bị bưng bít, những người lãnh đạo các nước cộng sản dụi mắt nhìn ra thế giới, chợt nhận ra đất nước của họ đã bị các nước tư bản bỏ lại phía sau quá xa. Cách xa cả một tiến trình sản xuất, tiến trình sản xuất nông nghiệp và tiến trình sản xuất công nghiệp hiện đại. Cách xa cả một chế độ xã hội, chế độ mang danh xã hội chủ nghĩa nhưng thực ra là chế độ xã hội phong kiến trung cổ bạo lực, tối tăm, ngưng đọng và chế độ tư bản văn minh, phát triển.
Tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên con người của đất nước họ đâu có kém mà sao đến nông nỗi này. Láu cá và quyết đoán, Đặng Tiểu Bình đã đi đầu trong việc lập đặc khu kinh tế và chọn 2050 cây số vuông đất Thẩm Quyến của những làng chài xơ xác, sát biển, sát Hồng Kông, thuận tiện giao thương. Từ Hồng Kông sang Thẩm Quyến chỉ nửa bước chân. Những ông chủ tư bản Hồng Kông cùng nói tiếng Quảng Đông với người Thẩm Quyến đến Thẩm Quyến như về nơi quê cha đất tổ. Đất đẹp cùng nhiều ưu đãi đặc biệt đón những ông chủ tư bản mang đồng vốn tư bản, mang công nghệ tư bản, mang thị trường tư bản vào đất nước vừa trải qua cuộc cách mạng văn hóa tốn máu của hàng chục triệu mạng người nhưng xã hội càng chìm sâu vào hướng ngược chiều văn hóa.
Dưới nòng súng pháo hạm của sức mạnh quân sự mạnh nhất thế giới thời đó là hải quân hoàng gia Anh, nhà Thanh phải cắt đất Hồng Kông nhượng cho nước Anh 99 năm. Đó là nỗi cay đắng, nỗi ô nhục muôn đời của lịch sử, của dân tộc Trung Hoa nên dù mê mẩn thèm khát đồng vốn tư bản, mê mẩn thèm khát công nghệ tư bản, Đặng cũng chỉ cho ưu đãi về thuế, về giá thuê đất, về xuất nhập cảnh, tuyệt đối không ưu đãi về thời gian thuê đất.
Từ một huyện nghèo thuộc tỉnh Quảng Đông, trở thành đặc khu kinh tế, Thẩm Quyến trở thành trung tâm sản xuất, kinh doanh rầm rộ, phát triển nhất Trung Quốc. Năm 2017, sản lượng kinh tế của Thẩm Quyến đạt 338 tỷ USD, vượt qua Quảng Châu, Hồng Kông, đứng thứ 3 trong số 659 thành phố của Trung Quốc, chỉ sau Bắc Kinh và Thượng Hải. Từ một bãi biển xơ xác, đặc khu kinh tế đã đưa Thầm Quyến trở thành cảng biển lớn thứ hai Trung Quốc chỉ sau cảng biển Thượng Hải đã có từ mấy trăm năm trước.
Thành công ngoài mong đợi của đặc khu Thẩm Quyến đã gọi những đặc khu kinh tế Chu Hải, Hạ Môn, Sán Đầu, Hùng An mọc lên. Về diện tích, các đặc khu kinh tế này nhỏ hơn một tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc nhưng đã đóng góp tới 22% GDP của Trung Quốc và chiếm 45% tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc. Các đặc khu kinh tế Trung Quốc đã trở thành động lực kéo nền kinh tế Trung Quốc băng băng chạy đua với các nền kinh tế thế giới, góp phần đưa Trung Quốc có mặt trong tổ chức G20, nhóm các nước có nền kinh tế lớn trên thế giới. Năm 2016 tổng sản phẩm trong nước của Trung Quốc đạt 11,2 ngàn tỉ đô la, đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mĩ.
Ngoài ra, các đặc khu kinh tế còn như những chiếc van cực lớn giảm áp lực về dân số cho những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu. Trước đây dân nghèo đói ở miền Tây, ở các tỉnh nông nghiệp thường lũ lượt kéo về Bắc Kinh, Thiên Tân… làm thuê kiếm sống thì nay họ tìm đến các đặc khu kinh tế.
Với sự thành công của cải cách kinh tế và đặc khu kinh tế, đến thời Tập Cận Bình, Tàu Cộng trở thành chủ nợ của thế giới, trở thành ông chủ nắm vận mệnh nhiều nước châu Phi, châu Á. Dưới sức mạnh pháo hạm của hải quân Anh, Trung Hoa phải gán đất Hồng Kông cho Anh 99 năm. Ngày nay dưới sức mạnh đồng tiền vay nợ của Tàu Cộng, nhiều nước châu Á, châu Phi đã phải gán đất 99 năm cho chủ nợ Tàu Cộng.
Đi sau Tàu Cộng hơn một nhiệm kì đại hội đảng, năm 1986 Việt Nam mới bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới cách làm kinh tế. “Đổi mới” chỉ là cách nói kể công của những người cộng sản, thực ra chỉ là quay về với cách làm kinh tế tự chủ, sáng tạo và hiệu quả đã có ở xã hội Việt Nam trước đây mà những người cộng sản đã xóa bỏ, tiêu diệt. Tiêu diệt những tinh hoa biết làm giầu bị gán cho tội giai cấp tư sản. Hủy hoại công nghệ, cơ sở vật chất của một nền công nghiệp hiện đại đang hiện hình. Hủy hoại cả trật tự xã hội, văn hóa xã hội đang đi vào văn minh đô thị sang trọng, lịch lãm. Hủy hoại cả đời sống dân chủ trong xã hội. Hủy hoại cả ý thức cá nhân trong mỗi con người. Xã hội không nhìn nhận cá nhân. Con người không còn ý thức cá nhân. Xã hội trở về bầy đàn. Bầy đàn thì chỉ có bạo lực. Không thể có bình yên. Không thể có kỉ cương. Không thể có văn hóa.
Đổi mới, nền kinh tế không còn khép kín, bế quan tỏa cảng nữa. Hướng nội, kinh tế tư nhân được nhìn nhận. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể không còn độc tôn nữa. Hướng ngoại, mở cửa đón nhà đầu tư nước ngoài mang vốn, mang công nghệ hiện đại vào. Đây chính là thời điểm tốt nhất, cần thiết nhất và cũng là thời điểm duy nhất cần có đặc khu kinh tế. Nhưng đặc khu kinh tế đã bị bỏ qua. Nhà nước cộng sản Việt Nam không tính đến đặc khu kinh tế hay nhà nước cộng sản đàn anh Tàu Cộng không cho Việt Nam làm đặc khu kinh tế?
Tàu Cộng không bao giờ muốn Việt Nam phát triển, giàu mạnh. Mãi mãi yếu hèn, Việt Nam sẽ phải mãi mãi phụ thuộc vào họ. Họ luôn tìm mọi cách đánh phá nền kinh tế Việt Nam. Tung đội quân buôn gian bán lận xục xao mua móng trâu, mua rễ tiêu, mua tất cả những thứ có thể làm hại nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Tung đội ngũ nhà thầu đểu thâu tóm các dự án kinh tế của Việt Nam bằng cách hối lộ quan chức chủ thầu, bỏ giá thầu cực thấp để trúng thấu rồi khi thi công liên tục đội giá lên. Đưa lao động cơ bắp Tàu sang lập làng Tầu. Đưa máy móc cộng nghệ phế thải hoặc tồn kho do đã lạc hậu từ bên Tàu sang. Thi công dầm dề kéo dài như vô tận. Nhà thầu Tầu giở đủ trò đánh phá các dự án kinh tế Việt Nam nhưng đám quan chức chủ thầu đã ăn hối lộ đầy mồm cứ phải nhắm mắt chấp nhận và hầu hết các công trình, dự án kinh tế của Việt Nam đều lọt vào tay các nhà thầu đểu Tàu Cộng.
Đánh phá nền kinh tế Việt Nam, kìm hãm sự phát triển của Việt Nam không từ một thủ đoạn bẩn thỉu, đê tiện nào là chủ trương xuyên suốt của nhà nước Tàu Cộng. Lấy ý thức hệ cộng sản và lấy đồng tiền hối lộ sai khiến quan chức nhà nước cộng sản Việt Nam thì Tàu Cộng sai khiến gì cũng phải nghe. Thời điểm tốt nhất, cần thiết nhất để Việt Nam mở đặc khu kinh tế, nhưng bị Tàu Cộng ngăn cản không cho làm cũng là điều bình thường, có sác xuất rất cao là sự thật.
Không làm đặc khu kinh tế, những chuyên gia kinh tế Việt Nam vội xây dựng luật đầu tư nước ngoài với sự cởi mở của tấm lòng và nhiều ưu đãi về chính sách. Luật đầu tư nước ngoài ra đời. Nhà đầu tư nước ngoài nhộn nhịp vào Việt Nam đã lấp đầy các khu công nghiệp mọc lên trên cả nước. Nhiều khu công nghiệp rất thành công, ngày càng được mở rộng như khu công nghiệp Vietnam - Singapore ở Bình Dương, khu công nghiệp Amata ở Đồng Nai…
Đặc khu kinh tế như cái ống thông giữa hai cái bình trên một mặt bằng. Một bình đầy nước, đầy vốn tư bản, đầy công nghệ tư bản là các nước công nghiệp phát triển. Một bình trống không là nước nghèo đang khát vốn tư bản, khát công nghệ tư bản. Năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam, mở đường cho các nước đầu tư vào Việt Nam. Khi đó nền kinh tế Việt Nam là cái bình trống không. Cái bình trống không đó nếu có cái ống thông là đặc khu kinh tế nối với cái bình đầy vốn tư bản, đầy công nghệ tư bản thì Việt Nam đương nhiên cũng phải có những Thẩm Quyến rực rỡ, phồn vinh. Thời cơ duy nhất, tốt nhất để làm đặc khu kinh tế nhưng Việt Nam đã không làm hay không được làm.
Không có đặc khu kinh tế nhưng với luật đầu tư nước ngoài đúng đắn do nhiều chuyên gia kinh tế góp trí tuệ soạn thảo, Việt Nam đã mở rộng tấm lòng, mở rộng cửa khẩu đón nguồn vốn, đón công nghệ từ các nước phát triển chảy vào. Các khu công nghiệp là những đặc khu kinh tế phân tán nhỏ mọc lên trên khắp đất nước làm cho cái bình trống không đã óc ách nước.
Thời điểm duy nhất, tốt nhất cho đặc khu kinh tế đã qua rồi. Lúc này, đặc khu kinh tế không còn cần cho Việt Nam nữa vì:
- Ngày nay với một dải đất hẹp và trải dài thì các khu công nghiệp trải rộng trên cả nước vừa sức với trình độ các nhà quản lí Việt Nam là phù hợp nhất, tốt nhất.
- Những nguồn vốn, những ngành công nghệ của các nước muốn đầu tư vào Việt Nam một cách chân chính, đàng hoàng, chỉ vì mục đích kinh tế, đều đã đầu tư rồi. Thương trường là chiến trường. Kinh doanh phải nhạy bén, phản ứng, chớp thời cơ mau lẹ như người lính ngoài mặt trận. Việt Nam mở cửa, tạo môi trường tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài đã 30 năm. Những nhà đầu tư chậm chân nhất cũng đã kịp có mặt.
- Với kinh tế tri thức, các nhà đầu tư ra nước ngoài tìm trí tuệ, tìm tinh hoa, săn đầu người chứ không tìm đất đai, không tìm sức lao động phổ thông nữa. Những ông chủ tư bản chỉ làm kinh tế không còn nhiều quan tâm đến đầu tư nước ngoài. Phải phân biệt rõ những ông chủ tư bàn chỉ làm kinh tế khác với những người mượn cớ đầu tư kinh tế ra nước ngoài để làm chính trị sẽ nhắc đến ở phần sau. Vào làm chủ Nhà Trắng, một trong những việc đầu tiên Donald Trump làm là thúc giục những ông chủ tư bản Hoa Kỳ rút đầu tư nước ngoài về để tạo việc làm cho người lao động Mỹ.
- Hơn 20 năm đổi mới cung cách làm kinh tế đã đánh thức nội lực Việt Nam vươn vai đứng dậy thành những ông chủ lớn, những nhà đầu tư ngang ngửa với nước ngoài thì đâu cần phải vọng ngoại tìm nhà đầu tư nước ngoài. Lập đặc khu kinh tế, ưu đãi nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra sự bất bình đẳng, chèn ép doanh nghiệp trong nước như thời thuộc Pháp, nhà nước Pháp ưu đãi doanh nghiệp Pháp, chèn ép doanh nghiệp bản địa Việt Nam vậy.
Ngày nay người dân Việt Nam đã nhận ra bộ mặt thật những nhà đầu tư như bô xít Tây Nguyên, như Formosa nhảy vào Việt Nam không hẳn vì mục đích kinh tế mà vì cái lớn hơn, sâu xa hơn, độc địa hơn kinh tế là đất đai, lãnh thổ. Có quá nhiều nhà đầu tư loại này đang lăm le muốn nhảy vào Việt Nam.
Làn sóng đầu tư nước ngoài đã mang lại cho nền kinh tế Việt Nam một sức sống mới. Nhưng độc tài về chính trị, tham nhũng về kinh tế cũng đã rước những nguồn đầu tư mang lại tai họa khôn lường, gây nên những ung nhọt nhức nhối trên cơ thể đất nước Việt Nam. Như dự án bô xít đang tàn phá màu xanh Tây Nguyên, đang làm chảy máu dai dẳng nền kinh tế Việt Nam. Như tập đoàn Hưng Nghiệp Formosa Vũng Áng, Hà Tĩnh, như nhiệt điện Vĩnh Tân, Bình Thuận đã và đang giết chết biển Việt Nam, đuổi người dân ra khỏi bến bãi, biển bờ ngàn đời của họ, để biển Việt Nam không còn bóng dáng những người dân đánh cá Việt Nam, những cột mốc sống khẳng định chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên biển. Trong chuyện gấp gáp, hăm hở làm đặc khu kinh tế lúc này cũng thấy rõ bóng dáng của độc tài chính trị. Đồng hành với độc tài chính trị luôn luôn là tham nhũng quyền lực và tham nhũng kinh tế.

PHẦN HAI: NHỮNG BẤT THƯỜNG TRONG DỰ LUẬT ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT VÀ TRONG CÁCH ĐƯA DỰ LUẬT RA QUỐC HỘI

Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, bộ tam đặc này xin được viết gọn là Đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc, có quá nhiều điều bất thường từ dự thảo luật, nội dung luật, tạo sức ép để ra được luật. Tất cả những bất thường đó cho người dân hai cảm nhận.
Một là. Những cam kết giữa ông Đảng trưởng Việt Cộng Nguyễn Văn Linh và ông Đảng trưởng Tàu Cộng Giang Trạch Dân ở Thành Đô năm 1990 vẫn đang còn giấu kín. Nhưng dường như Luật Đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc chính là bước đi theo lộ trình đã vạch ở Thành Đô năm 1990. Khi Luật Đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc được hơn 90 % ông bà nghị là đảng viên cộng sản bấm nút thông qua thì ngày nhà nước Việt Nam độc lập bị thực sự xóa sổ đã cận kề.
Hai là. Thế lực đen tối ở bên ngoài Việt Nam áp đặt Việt Nam phải làm bô xit Tây Nguyên nay lại lù lù xuất hiện áp đặt Việt Nam phải làm đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc. Sự áp đặt đó đang đè nặng xuống phòng họp Diên Hồng trong tòa nhà Quốc hội ở Ba Đình.
ÁP ĐẶT
Nền kinh tế Việt Nam không cần có đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc cũng như nền kinh tế Việt Nam không cần khai thác bô xít Tây Nguyên. Con mắt, tầm nhìn Việt Nam không chọn Đồn - Phong - Quốc làm đặc khu kinh tế. Nhưng một thế lực từ bên ngoài đã nhòm ngó, thèm khát Tây Nguyên. Nay thế lực đó lại nhòm ngó, thèm khát ba yếu huyệt Đồn - Phong - Quốc. Vì vậy mà đã có dự án khai thác bô xít Tay Nguyên và nay lại có Đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc.
Trước tiếng nói của một công thần nhà nước cộng sản Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ba lần lên tiếng về nguy cơ của dự án bô xít Tây Nguyên, trước những cơn sóng lừng phản đối dự án bô xít Tây Nguyên của đội ngũ trí thức và đông đảo người dân, ông thành viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản và là Thủ tướng nhà nước cộng sản Việt Nam lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng chỉ đáp gọn lỏn: Dự án bô xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của Đảng. Chủ trương lớn của Đảng vì trước đó người đứng đầu Đảng Việt Cộng, Nông Đức Mạnh đã cam kết với người đứng đầu Đảng Tàu Cộng Hồ Cảm Đào về việc cùng với Tàu Cộng khai thác bô xít Tây Nguyên của Việt Nam. Một ông Đảng trưởng không có quyền hành pháp, tự tiện quyết định công việc nhà nước, công việc hành pháp, áp đặt cho cả bộ máy nhà nước phải thực hiện.
Đảng áp đặt thì dân phải gánh chịu và nước phải lãnh đủ. Áp đặt về kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam những thảm họa lớn như
Đảng Việt Cộng nghe Tàu Cộng xui khôn xui dại áp đặt cải cách ruộng đất thì hàng trăm ngàn nông dân làm ăn giỏi có cuộc sống sung túc phải trở thành địa chủ, bị xử bắn và người bị Đảng bắn chết thê thảm đầu tiên, bắn chết ở ngay bản doanh kháng chiến của cơ quan đầu não cộng sản Việt Bắc là người đàn bà ân nhân của Đảng, bà Nguyễn Thị Năm. Cải cách ruộng đất không chỉ giết hàng trăm ngàn nông dân làm ăn giỏi, những người sáng tạo nên nền văn minh lúa nước Việt Nam mà còn phá nát nền văn hóa làng xã Việt Nam.
Đảng áp đặt cải tạo tư bản, tư doanh thì nền công nghiệp hiện đại mang khát vọng dân tộc Việt Nam đang lớn mạnh liền bị quốc hữu hóa. Giao vào tay những người chỉ có lòng hận thù giai cấp, chỉ biết có bạo lực cách mạng, nền công nghiệp hiện đại nhanh chóng tan nát.
Chủ trương lớn của Đảng đã áp đặt thì hàng trăm ngàn tỉ tiền thuế của dân phải ném vào dự án bô xít, thì cánh cửa khẩu nhập cảnh, cánh cửa an ninh quốc gia phải mở rộng đón hàng chục ngàn lao động cơ bắp từ Tàu Cộng tràn vào Tây Nguyên. Màu xanh bất tận Tây Nguyên bị hủy diệt. Nền văn hóa rừng đặc sắc Tây Nguyên bị đánh bật gốc rễ. Mỗi năm dự án khai thác bô xít Tây Nguyên thua lỗ hàng ngàn tỉ đồng. Cả chục năm nay từ khi khai thác bô xít Tây Nguyên nền kinh tế Việt Nam bị chảy máu xối xả.
Kín đáo hơn, sâu xa hơn, mềm mại, uyển chuyển hơn nhưng sự áp đặt vẫn lồ lộ ra trong việc Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đang gấp gáp triển khai ba đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc. Ngày 21.5.2018 Quốc hội mới nhóm họp để xem xét dự luật Đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc nhưng từ hơn tháng trước, ngày 16.4.2018 bà chủ tịch Quốc hội Thị Kim Ngân đã quán triệt, nhắc nhở và cả chỉ thị cho thành viên ủy ban Thường vụ Quốc hội trong cuộc họp chuẩn bị cho kì họp Quốc hội tháng sau: Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật.
Bộ Chính trị đã kết luận rồi chỉ là cách nói mềm mại, uyển chuyển của một sự thật: Bộ Chính trị đã quyết định rồi. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ che giấu sự thật thì những người cộng sản Việt Nam là kiệt xuất. Như thành phố Sài Gòn đã chi hàng ngàn tỉ tiền ngân sách vào việc chống ngập lụt nhưng chỉ một trận mưa nhỏ những điểm ngập lại xuất hiện khắp thành phố, những người đã làm tiêu tan hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân liền gọi tên sự ngập lụt đó chỉ là những điểm tụ nước. Thực chất Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc nhằm hướng tới Tàu Cộng, nhằm mở cửa đón Tàu Cộng. Nhưng để giấu kín ý đồ đó, trong luật, tên Trung Quốc đã được thay bằng “nước chung đường biên giới với Quảng Ninh”. Tài đến thế là cùng!
Bộ Chính trị đã quyết định rồi và ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội phải nhắc nhở, chỉ thị cho thành viên ủy ban thường vụ Quốc hội đều là đảng viên phải chấp hành. Bộ Chính trị đã quyết định rồi và trưởng đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh phải quán triệt, đòi hỏi đảng viên trong đoàn “phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật” Ai cũng biết hơn 90% các ông nghị, bà nghị là đảng viên cộng sản thì cái kết luận, cái quyết định của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản cũng sẽ là cái quyết định của Quốc hội cộng sản mà thôi. Đây là điều người dân đang vô cùng lo lắng và phẫn nộ
Áp đặt ở nghị trường. Áp đặt trong đội ngũ quan chức nhà nước. Áp đặt cả với dư luận, với người dân. Dự luật hình thức là đặc khu kinh tế nhưng thực chất là văn bản pháp lí hợp thức hóa việc rước giặc vào nhà đang làm hầu hết người dân Việt Nam thắt tim lo lắng và bừng bừng phẫn nộ thì nhà nước cộng sản liền đưa một đoàn nhà báo công cụ của Đảng sang chiêm ngưỡng sự phồn vinh hào nhoáng của đặc khu kinh tế Thẩm Quyến bên Tàu rồi mang sự phồn vinh hào nhoáng Thẩm Quyến về ru ngủ sự phẫn nộ của người dân Việt Nam.
ĐẶC KHU KINH TẾ HAY ĐẶC KHU QUÂN SỰ
Với Việt Nam, đặc khu kinh tế là sản phẩm của thế kỉ 20. Sắp hết thập kỉ thứ hai của thế kỉ 21 mới tính đến làm đặc khu kinh tế là đã quá lỗi thời, lạc lõng với thời đại. Dự luật đặc khu hành chính - kinh tế Đồn - Phong - Quốc với hai nội dung cho thuê đất 99 năm và những pháp nhân trong đặc khu được mời tòa án nước ngoài phân xử tranh chấp lại càng lạc lõng và vô cùng nguy hại.
Cho thuê đất 99 năm thực chất là gán đất, nhượng đất, là sản phẩm của hai thời lịch sử:
Thời thực dân cũ ở thế kỉ 19, nước thua trận phải nhượng đất 99 năm cho nước thắng trận. Như Trung Hoa Mãn Thanh phải nhượng đất Hương Cảng 99 năm cho nước Anh.
Thời thực dân tiền ở đầu thế kỉ 21. Với sự trỗi dậy của chủng tộc Đại Hán luôn có khát vọng đất đai lãnh thổ cũng là thời trỗi dậy của một thứ chủ nghĩa thực dân mới là chủ nghĩa thực dân tiền. Cải cách kinh tế đã nâng Tàu Công lên thành một cường quốc kinh tế. Cường quốc kinh tế Tàu Cộng với đồng tiền rủng rỉnh liền làm sống lại chủ nghĩa thực dân, đi xâm lược, chiếm đất, vơ vét tài nguyên, nô dịch các dân tộc nhỏ yếu và Tàu Cộng đã sáng tạo ra loại hình thực dân mới, thực dân tiền. Vung tiền cho các nước nghèo khó và các nước độc tài, tham nhũng vay. Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Tiền vào nước độc tài, tham nhũng như nước chảy vào cái thùng không đáy. Tiền vay cho nền kinh tế nhưng phần lớn chảy vào túi quan tham thì lấy đâu ra tiền trả nợ! Không có tiền trả nợ, con nợ phải nhượng đất 99 năm cho chủ nợ Tàu Cộng. Sri Lanka đã phải nhượng cảng Hambantota 99 năm cho Tàu Cộng. Campuchia cũng đã gán cảng Congpongsom 99 năm cho Tàu Cộng…
Đặc khu kinh tế đã là quá khứ. Vì sao lúc này chóp bu cộng sản Việt Nam lại gấp gáp, máu me làm đặc khu kinh tế? Cho thuê đất 99 năm thực chất là nhượng đất. Nước con nợ phải mang đất gán nợ cho nước chủ nợ. Vì sao lúc này nhà nước cộng sản Việt Nam lại phải hấp tấp, lấm lét và trí trá, lừa dối dân mang ba mảnh đất vàng ở ba vị trí chiến lược hiểm yếu ra gán nhượng? Đặt ra hai câu hỏi này sẽ tìm thấy ngay câu trả lời là ở Tàu Cộng.
Đây là lúc kinh tế Việt Nam cùng quẫn nhất, khốn đốn nhất, hậu quả để lại sau hai nhiệm kì của ông Thủ tướng dốt nát, tham nhũng và tàn bạo Nguyễn Tấn Dũng. Cả một Chính phủ hối hả tham nhũng với những Nguyễn Tấn Dũng, Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Bắc Son, Phùng Quang Thanh, Đinh La Thăng, Võ Kim Cự, Nguyễn Bá Thanh, Văn Hữu Chiến… Loại quan chức chưa mon men được tới cấp Chính phủ như Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Trịnh Xuân Thanh… mỗi tên cũng nuốt hàng ngàn tỉ đồng thì ở cấp Chính phủ, số tiền tham nhũng còn khủng khiếp đến thế nào. Nền kinh tế đất nước bị phá tanh bành, ngân khố trống rỗng, công nợ ngập đầu. Lộn túi dân ra vét tiền bằng đủ các sắc thuế, sắc phí tàn ác hơn cả thời thuộc Pháp. Mang cả các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi Sabeco, nhựa Bình Minh… ra bán tống bán tháo cũng không cứu vãn được ngân sách trống rỗng. Rồi lại dồn dập đến kì hạn phải trả những khoản nợ vay nước ngoài và Tàu Cộng là một chủ nợ lớn.
Cùng với kinh tế suy sụp là lòng dân li tán. Nhà nước độc tài và tham nhũng ngày càng đi ngược lợi ích của nhân dân và đất nước, ngày càng thù địch, đàn áp dân tàn bạo. Đàn áp đổ máu dân Hà Nội, Sài Gòn biểu tình phản đối sự có mặt của Tập Cận Bình ở Việt Nam. Đàn áp dân Nghệ An, Hà Tĩnh trong thảm họa Formosa. Lòng dân không chỉ li tán mà nỗi bất bình ngày càng ngùn ngụt bốc cao. Đây chính là lúc nhà nước cộng sản Việt Nam suy yếu nhất, run rảy nhất. Càng run rẩy trước dân càng phải lấp liếm sự run rảy bằng bạo liệt đàn áp. Đây là lúc nhà nước cộng sản Việt Nam xa dân nhất, chới với nhất.
Trong cảnh kiệt quệ, khốn cùng, nền kinh tế Việt Nam khấp khởi trông chờ vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP và Hiệp định Hợp tác thương mại với Liên minh châu Âu EVFTA. Nhưng Trời không dung độc tài và tham nhũng. Không những Mỹ rút ra khỏi TPP làm cho TPP không còn giá trị mà những công ty Mỹ đầu tư ra nước ngoài cũng đang tính nước rút về Mỹ. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP thay thế TPP thì chưa ngã ngũ. Sau vụ kéo cả một đám tướng tá an ninh nhà nước cộng sản Việt Nam lén lút sang nước Đức, đạp lên luật pháp nước Đức, đột nhập vào Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, quan hệ giữa nhà nước cộng sản Việt Nam với cả Liên minh châu Âu trở nên tồi tệ chưa từng có thì EVFTA còn treo lơ lửng vô thời hạn.
Để cứu vãn tình thế, ông Đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng vội hấp tấp đến Pháp. Pháp cùng với Đức là hai nước trung tâm, rường cột của Liên minh châu Âu và Pháp cũng là nước có quan hệ thân tình, mật thiết với nước Đức. Dù phải mở cửa Điện Élysée tiếp ông Đảng trưởng độc tài nhưng đất nước đã làm cuộc cách mạng tư sản dân quyền từ thế kỉ 18 phá nhà ngục Bastille của độc tài phong kiến không thể chấp nhận độc tài và ông chủ trẻ của đất nước Tự do - Bình Đẳng - Bác ái đã tiếp ông Đảng trưởng cộng sản quá lạnh nhạt, hờ hững như tiếp kẻ độc tài từ thế kỉ 18 lạc loài giữa ánh sáng văn minh. Ông Đảng trưởng độc tài càng nhận rõ sự lạc lõng, cô đơn của nhà nước cộng sản Việt Nam và nhận ra những cái phao cứu sinh của nền kinh tế Việt Nam đều đã không còn. Việt Nam không những suy yếu mà còn đơn độc giữa thế giới loài người hơn bao giờ hết.
Trong khi đó Tàu Cộng đã quân sự hóa xong các đảo cướp được của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa. Trên những sân bay hiện đại và những trận địa dã chiến giữa biển Đông, những máy bay ném bom hạng nặng đã vào vị trí xuất phát, những dàn tên lửa đã lên bệ phóng hướng về phía Tây, nơi có dải bờ biển hình chữ S.
Run rảy trước nhân dân trong nước. Cô lập lẻ loi trong thế giới loài người văn minh. Những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy có mỗi thân hình lừng lững như hộ pháp và bộ mặt cuộn lên từng múi thịt của Tập Cận Bình. Thôi đành nhắm mắt thực hiện những cam kết cay đắng ở Thành Đô năm 1990, làm theo những gì con người hộ pháp kia cần. Bộ mặt nậc lên từng múi thịt đang hau háu thèm khát nhìn vào Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc thì phải gấp gáp làm luật biến ba nơi đó thành ba đặc khu kinh tế che mắt dân và lặng lẽ đón những kẻ ngàn đời thèm khát đất đai lãnh thổ vào mảnh đất Vân Đồn còn in dấu chân, in chiến công đánh đuổi giặc Nguyên của Đức Ông Trần Quốc Tảng đời nhà Trần.
Con đường tất yếu của kẻ đặt lợi ích vương triều thối nát của một dòng họ lên trên lợi ích trăm họ cũng là con đường tất yếu của những kẻ đặt lợi ích của một Đảng độc tài lên trên lợi ích của dân tộc, của đất nước. Con đường bán nước.
Cuối thế kỉ 20, núp dưới danh nghĩa khai thác bô xít Tây Nguyên, Tàu Cộng đã đưa hàng sư đoàn lên điểm cao Tây Nguyên, lập những làng Tầu trên nền đất văn hóa Tây Nguyên.
Đầu thế kỉ 21, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Võ Kim Cự đã dâng yếu huyệt Vũng Áng, Hà Tĩnh cho Hưng Nghiệp Formosa, danh nghĩa là Tàu Đài Loan nhưng thực chất là Tàu Bắc Kinh. Vũng Áng đã trở thành đất của Tàu Cộng trong 70 năm. Người Việt Nam dù là quan chức quản lí đất đai cấp bộ cũng không được bén mảng đến. Sau bức tường cao quây kín Vũng Áng, lao động Tàu đang xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương cho tầu ngầm có thể neo đậu, biến cảng nước sâu Sơn Dương thành một đầu cầu cho quân từ biển đổ bộ vào đất liền, cắt đôi đất nước Việt Nam ở nơi hẹp nhất. Cảng nước sâu Sơn Dương cùng với căn cứ hải quân Du Lâm trên đảo Hải Nam của Tàu Cộng tạo thành cánh cửa thép khép kín vịnh Bắc Bộ, cắt đôi biển Việt Nam.
Năm thứ 18 của thế kỉ 21, ba đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc ra đời. Không có CPTPP, không có EVFTA thì chỉ có những dòng người từ Tàu Cộng tràn vào với danh nghĩa nhà đầu tư.
Ba đặc khu kinh tế Đồn - Phong - Quốc mở ra đón dòng người từ đại lục Trung Hoa tràn đến. Dải đất Việt Nam sẽ nằm gọn trong bàn tay với năm ngón tay thép, năm gọng kìm lửa: Bô xít Tây Nguyên ở phía Tây. Đặc khu Vân Đồn, Quảng Ninh ở phía Bắc. Căn cứ Vũng Áng Formosa Hà Tĩnh và Đặc khu Bắc Vân Phong, Khánh Hòa ở miền Trung. Đặc khu Phú Quốc, Kiên Giang ở phía Nam. Những đặc khu danh nghĩa là kinh tế sẽ hiện nguyên hình thực chất là những đặc khu quân sự.
P.Đ.T.
Tác giả gửi BVN.
ĐẢNG LÀM LUẬT BÁN NƯỚC
NGÔ NHÂN DỤNG/NV/  BVN 8-6-2018
Ngày 15 tháng Sáu, Đảng Cộng sản sẽ cho biểu quyết Luật Đặc khu, hàng ngàn người thuộc hàng trăm tổ chức đã lên tiếng phản đối. Vì cả nước đang nghi ngờ dự luật này sẽ mở đường cho Cộng sản Trung Quốc có ngày sẽ chiếm nước ta.
Dự luật này sẽ lập ba đặc khu kinh tế tại ba vùng biển: Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), và Phú Quốc (Kiên Giang); với quy chế hành chính đặc biệt ưu đãi giới đầu tư. Mối lo chính của giới trí thức nước ta là các đặc khu này sẽ mở cửa cho các công ty Trung Cộng lợi dụng các ưu quyền để xâm nhập và bắt rễ, để có ngày nước Việt Nam sẽ biến thành như Tân Cương, Tây Tạng.
Nhà phân tích Nguyễn Quang Dy ở trong nước, nhận định: Trong khi Trung Quốc ráo riết quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông, … chắc họ sẽ tăng cường bành trướng thế lực để chiếm các vị trí hiểm yếu trên đất liền. Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ thèm muốn…
Ông dẫn ý kiến của chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt, ở Mỹ, nhận xét rằng các quy định trong dự luật về đặc khu chủ yếu nhằm vào thị trường địa ốc (property) và đánh bạc (casino) chứ không nhằm thu hút đầu tư công nghệ cao. Casino và nghề mại dâm sẽ phát triển “vì đây là nơi duy nhất (tại Việt Nam) các hoạt động này được phép hành nghề tự do”; sẽ gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm.
Trong khi đó, ông Vũ Quang Việt nhấn mạnh, “cái mà Việt Nam cần là công nghệ cao và giáo dục để tăng năng suất lao động, phát triển công nghiệp và kinh tế trí thức, chứ không phải là phát triển địa ốc và casino”. Ông nhắc lại rằng năng suất lao động của Việt Nam vào loại thấp nhất thế giới (thấp hơn Singapore 15 lần).
Một điều đáng lo nhất là dự luật này mở đường cho bọn tham quan bán nước công khai. Chức “chủ tịch đặc khu” được trao quyền hành như những vua con để tiếp tay tài phiệt nước ngoài; như Võ Kim Cự đã làm tay sai cho Formosa ở Vũng Áng; với quyền cho nhà đầu tư nước ngoài thuê đất 70 năm, 99 năm nếu Thủ tướng đồng ý. Ngay tên gọi chức vụ này “Trưởng khu hành chính” cũng rập theo chức “hành chánh trưởng quan” mà Trung Cộng đặt cho người đứng đầu Hồng Kông hiện nay. Thế kỷ 19, nhà Thanh đã phải nhượng Hương Cảng cho người Anh với thời hạn 99 năm, sau khi bại trận mấy lần. Bây giờ Cộng sản Việt Nam tự nguyện hiến dâng.
Những ưu đãi giành cho tài phiệt ngoại quốc có thể biến các đặc khu thành lãnh địa của họ. Họ chỉ cần đầu tư 110 tỷ đồng ($5 triệu đô la) sẽ được cấp thẻ tạm trú 10 năm, được miễn thuế thu nhập trong vòng 5 năm và giảm tiếp 50% sau đó. Họ được miễn thuế thuê đất 30 năm, có thể bán lại tài sản và tài sản được thừa kế. Họ được quyền thuê người nước ngoài vào làm việc 180 ngày trong một năm, không cần giấy phép lao động.
Những ưu đãi này sẽ dẫn đến một làn sóng di dân mới, đặc biệt là giới lao động không có nghề chuyên môn từ Trung Quốc. Các xí nghiệp Trung Cộng đã đưa công nhân của họ tràn ngập khắp nước ta, lập các “thành phố Tàu” từ Formosa Hà Tĩnh tới các mỏ bauxite ở Tây Nguyên.
Ông Nguyễn Quang Dy nhắc lại: “trước đây hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam rơi vào tay các tập đoàn Trung Quốc, … Ngoài Vũng Áng (đã nằm trong tay Trung Quốc), Vân Phong và Cửa Việt là hai vị trí chiến lược hiểm yếu đang bị Trung Quốc nhòm ngó. Từ Bắc Trung bộ đến Nam Trung bộ, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược đã và đang được giao cho doanh nghiệp làm dự án mà không tính đến yếu tố an ninh quốc gia. Tại Đà Nẵng và Nha Trang, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược dọc bờ biển đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm”. Và lo lắng: “không có lý gì các đặc khu kinh tế đó lại không rơi vào tay họ và biến thành các tô giới của Trung Quốc’.” Ông viết: “Ninh Bình không phải là đặc khu kinh tế, nhưng đã là ‘vương quốc’ riêng”.
Khi có tranh tụng giữa người nước ngoài và người Việt, Luật Đặc khu còn cho phép các bên được lựa chọn toà án nước ngoài xét xử. Điều kiện này không khác gì những đòi hỏi tài phán mà các đế quốc Tây phương đã bắt triều đình nhà Thanh bên Tàu và nhà Nguyễn ở nước ta phải theo trong thế kỷ 19. Khi đó, các đế quốc đã dí súng vào đầu đám vua quan để được quyền “ngoại tài phán” trong các tô giới. Bây giờ Cộng sản Việt Nam tự nguyện hiến dâng.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải, Vũng Tầu lo rằng: “…chắc chắn ba Đặc khu ấy sẽ là ba thành phố Trung Hoa khổng lồ. Và chỉ trong vòng 30 năm vừa tăng trưởng dân số… và di dân, tối thiểu mỗi nơi ít nhất có từ 7 triệu đến 10 triệu người. Vài ba chục triệu người Trung Hoa nối đời sinh ra trên mảnh đất 99 năm ấy…” Ông báo động: “Thử xem dân tộc Uyghur ở Trung Á bị… nhập vào lãnh thổ Trung Hoa từ cuối thế kỉ 19… Năm 1949, tỉ lệ người Hán trên vùng lãnh thổ này chỉ chiếm 4%. Tới năm 2000 người Hán đã chiếm tỉ trọng 46%. Vài năm gần đây người Hán đã áp đảo với tỉ lệ 60/40.
Nhưng trên đây chỉ là những mối lo xa nếu chúng ta sống trong thời bình. Mối lo gần hơn, như ông Nguyễn Quang Dy nêu lên là, “Nếu xung đột tại Biển Đông xảy ra thì ba đặc khu Vân Đồn, Vân Phong, và Phú Quốc có ý nghĩa chiến lược hiểm yếu,… không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả các nước ASEAN”. Bởi vì, “Nếu ba vị trí chiến lược đó bị đối phương (Trung Quốc) chiếm thì coi như hết cờ (và “xong phim”).
Ông giải thích: “Vân Đồn… án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc, để ngăn chặn thủy quân Trung Quốc xâm nhập bằng đường biển, như thời Ngô Quyền chống quân Nam Hán (938), thời Lý Thương Kiệt chống quân Tống (1075- 1077), thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông (1287-1288). Nếu Vân Đồn có vị trí chiến lược… nhìn ra Vịnh Bắc Bộ, thì Phú Quốc có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía cực Nam nhìn ra Ấn Độ Dương, trong khi Vân Phong có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ Miền Trung nhìn ra Biển Đông”.
Nhà báo Thiên Điểu mô tả: “Vân Đồn rõ ràng chỉ phục vụ cho hàng hóa Trung Quốc ra Biển Đông. Nghĩa là Việt Nam chỉ thu được tiền ‘cho thuê bến bãi’ là chính; nhưng sẽ không dễ cạnh tranh với cảng Phòng Thành; Thẩm Quyến…” ở bên Tàu. Trong khi đó, “Phú Quốc có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía cực Nam nhìn ra Ấn Độ Dương,… bất cứ ai cũng hiểu được giá trị của Phú Quốc nếu các tuyến hàng hải (nối vùng Đông Nam Á tới Australia, Nhật Bản, Trung Đông, châu Âu, châu Phi) được hình thành cho những tàu tải trọng lớn của thế giới đi qua.
Ông Nguyễn Quang Dy nhắc nhở: “…người ta đã chóng quên bài học xấu về các dự án lớn như ‘đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng’, khai thác bauxite Tân Rai và Nhân Cơ; cũng như kinh nghiệm xấu tại Chu Lai (Quảng Nam, 2003), Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Nhơn Hội (Bình Định, 2005), Chân Mây (Thừa Thiên, 2006), Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Phú Yên (2008).
Ông đặt câu hỏi Tại sao các nơi đó thất bại? Và trả lời: “không cải tổ thể chế để kiểm soát quyền lực và tham nhũng, thì các mô hình phát triển tương tự sẽ lặp lại bài học ‘lợi bất cập hại”.
Nhận xét này vạch ra tai họa của nước Việt Nam hiện nay: Một chế độ độc tài đảng trị, ra lệnh cho quốc hội bù nhìn làm ra những đạo luật bán nước. Không ai ngoài đảng được quyền tự do phát biểu ý kiến, không ai được tự do lập hội, lập đảng để tranh đấu bảo vệ tổ quốc.
Nhật báo Người Việt hoan nghênh và ủng hộ bản ý kiến của giới trí thức Việt Nam trong và ngoài nước ký ngày 30 tháng 5 năm 2018, yêu cầu các đại biểu: “KHÔNG biểu quyết thuận để thông qua dự luật Đơn vị Hành chính-Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”. Và “KHÔNG tiếp tay cho đám tư bản đứng sau đề án này”.
Tuy nhiên, chúng ta không hy vọng Việt Cộng sẽ chịu lắng nghe những lời nói phải. Bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã thú nhận: “Bộ Chính trị đã chỉ đạo, (quốc hội) phải bàn để ra luật”. Biết hậu quả của dự luật này, phải nói rằng họ sẽ cho ra một đạo luật bán nước.
Nhà văn Nhất Chi Mai, là sinh viên chuẩn bị ra trường của Đại học Y Dược ở Việt Nam, đã chỉ mặt Đảng Cộng sản để hỏi: “Vì sao tôi cho rằng nguy cơ mất nước quá rõ ràng? Năm 1958 trong Công hàm Phạm Văn Đồng các vị đã giao chủ quyền Hoàng Sa cho Trung Cộng. Năm 1988 Lê Đức Anh ra lệnh ngưng nổ súng cho Trung Cộng chiếm Gạc Ma ở Trường Sa, 64 chiến sĩ Việt Nam làm bia cho bọn Tàu bắn. Năm 1979 Trung Cộng kéo quân xuống… đòi dạy cho tập đoàn Lê Duẩn một bài học, 6 vạn quân và dân Việt Nam tử thương. (Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã ở châu Âu) các vị đã nhận Trung Quốc làm cha đỡ đầu trong Hội nghị Thành Đô. Năm 1999 các vị lại cắt ẢI NAM QUAN, THÁC BẢN GIỐC cho Trung Cộng.
Dự Luật Đặc khu là một bước nữa trên con đường bán nước của Đảng Cộng sản.
N.N.D.
Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/mot-du-luat-ban-nuoc/

LUẬT ĐẶC KHU, ÂM MƯU ?

BÙI QUANG VƠM/ BVN 8-6-2018

Đặc khu nếu…

Theo Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương:
“Thể chế cho ba đặc khu phải khác biệt so với phần còn lại của đất nước để chúng trở nên vượt trội và có khả năng cạnh tranh quốc tế," ông Cung góp ý tại một cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan chủ trì soạn thảo dự luật này, tổ chức ở Quảng Ninh.
Theo ông Cung, cần có tòa án dân sự, thương mại độc lập; các cơ quan cạnh tranh công bằng và độc lập; trong khi nhà đầu tư được phép chọn trọng tài, tòa án để giải quyết tranh chấp thương mại.

Bên cạnh đó, đồng tiền sử dụng ở đặc khu là tất cả các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi và tiền đồng của Việt Nam, không hạn chế tiền mặt mang vào, mang ra.
Về thuế, ông đề nghị chỉ áp dụng thế thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp, không thuế quan cho hoạt động xuất nhập khẩu, miễn visa cho phần lớn khách đến.
Về giáo dục, hệ thống nhà trường sau khi có đặc khu, cần theo cơ chế thị trường, và nội dung, cách thức, ngôn ngữ giảng dạy là tùy nhu cầu, do nhà trường quyết định. Ủy ban hành chính đặc khu được thiết kế sao cho can thiệp hành chính ít nhất có thể”.
Những điều mà ông Cung đặt ra chính là muốn nói: Đặc khu muốn hoạt động có hiệu quả, nó phải được vận hành bằng hệ thống quản trị với tư duy hiện đại vào bậc nhất thế giới, tương ứng với một hệ thống luật tiên tiến nhất, trong một mô hình thị trường đầy đủ và hoàn chỉnh nhất.
Trong mô hình thị trường tự do, các xung đột tự do thúc đẩy các điều chỉnh hướng tới sự hoàn thiện của luật pháp. Tự do chính nguồn gốc của dân chủ, là nhân tố cần và đủ cho một nền dân chủ đích thực. Vì vậy, đặc khu, cùng với Luật Đặc khu sẽ hỗ trợ các cải cách dân chủ dẫn đến thay đổi chính trị trên phạm vi cả nước.
Như vậy, nếu các đặc khu vận hành tốt, thể chế chính trị và các thể thức quản trị của các đặc khu sẽ có ảnh hưởng lan toả như khuôn mẫu để điều chỉnh thể chế cho cả nước. Về ý nghĩa này, có thể thấy, không có cách làm cách mạng dân chủ nào có hiệu quả và êm thấm hơn cách này.
Cần phải hiểu rằng, chế độ chuyên chế độc tài là kẻ thù của tự do, nhưng chính tự do là nhân tố trực tiếp làm tan rã và thủ tiêu độc tài.
Nếu Luật Đặc khu ra đời với những điều căn bản đảm bảo tính tự chủ và độc lập nhất định của Đặc khu, thì trên thực tế sẽ hình thành ba quốc gia có chế độ chính trị- kinh tế-xã hội khác với phần còn lại của quốc gia chuyên chế độc đảng. Ở các khu này, sẽ hình thành một hệ tư duy mới, tập quán sinh hoạt mới, một loại dân chúng mới hiện đại và tự do hơn. Điều này trước sau chỉ có lợi cho tiến trình dân chủ hoá.
Trên một góc nhìn khác, trong khi đang tìm kiếm mọi cách xây dựng cơ sở làm hạt nhân giáo dục và vận động quần chúng, thì ba đặc khu với hình thức tổ chức và quản trị kinh tế xã hội hoàn toàn theo mô hình xã hội đỉnh cao hiện đại, chính là mơ ước của các nhà hoạt động dân chủ. Nó giống như một thứ “căn cứ địa cách mạng”. Chỉ còn việc vận động xã hội gây áp lực lên chính quyền độc tài làm các cuộc chuyển hoá hoà bình.
Vấn đề là làm thế nào để ngăn chặn được một cách tuyệt đối nguy cơ các khu vực lãnh địa có vị trí đặc biệt với nền an ninh quốc gia này rơi vào tay Tàu Cộng. Sự thèm khát lãnh thổ và dã tâm thôn tính VN của Tàu Cộng không còn cần phải bàn cãi. Luật phải quy định rõ cấm các nhà thầu Tàu Cộng và có yếu tố Tàu Cộng được quyền tham gia đấu thầu đầu tư. Tất cả các việc sang nhượng cổ phần và quyền sở hữu mọi thứ tài sản thuộc đặc khu phải chịu sự kiểm soát của cơ quan an ninh và phải được quy định thuộc trách nhiệm của cơ quan an ninh điều tra. Tất nhiên, Luật đầu tư là bình đẳng, nhưng Luật An ninh quốc phòng, Luật chủ quyền phải chỉ rõ âm mưu thôn tính là đặc tính của Tàu Cộng, phải là đối tượng bị cấm di dân dưới mọi hình thức.
Ông Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư trả lời chất vấn: “Mọi người đang hình dung tiêu cực, đang đẩy thành vấn đề sợ Trung Quốc. Nhưng chúng ta bình đẳng không phân biệt, không một ai có thể vào đây làm việc gì khi đất nước ta đang có chủ quyền”. Chắc ông này không biết Hoàng Sa và Trường Sa có phải chủ quyền của Việt Nam không, có đòi lại được không? Fomosa làm gì phía bên trong Chính phủ có được biết không? 10000 công nhân người Tàu tại Bô-xít là lính làm kinh tế, Chính phủ có nắm được không? Nhũng khu rừng đầu nguồn trên suốt 10 tỉnh biên giới cho thuê 50 năm, người Tàu lập làng, lập trường, lập đền chùa, sinh con đẻ cái, sau có đuổi được họ về nước không?

Nhưng làm gì còn gì cho người khác đầu tư?

Tác giả Phương Thảo, trong bài viết “Phượng Hoàng nào vào đặc khu?” (VNTB, ngày 6/6) đặt các câu hỏi: “Ai nói Chính phủ cho Trung Quốc thuê đất 99 năm ở đặc khu? Đọc Luật Đặc khu chưa? Ra tới Phú Quốc, Vân Đồn, Vân Phong mà coi chưa? Toàn là đại gia Việt Nam đầu tư cả! Vượng Vin, Lam Sun, FLC Hạnh IPP. Nước ngoài đâu mà nước ngoài?”.
Trong bài viết này, cả ba khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, mặc dù chưa có Luật, nhưng dự kiến quy hoạch đặc khu thì đã có từ 20 năm nay, và Luật đã được chính ông Bùi Quang Vinh Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư làm trưởng ban soạn thảo, chuẩn bị để trình Quốc hội từ năm 3012- 2013. Và theo điều tra của tác giả bài viêt, thì ở cả ba khu này đã không còn gì để “thu hút đầu tư” nữa. Vì những gì có thể đầu tư, tức là những gì có thể kiếm lời, đã được các đại gia người Việt, thực chất là tay chân, vây cánh hay sân sau hay cơ quan kinh tài v.v. hoặc của Đảng hoặc của các quan chức chủ chốt chiếm giữ và đang kiếm ăn rồi.
Phú Quốc do VinGroup của Phạm Nhật Vượng chiếm gần hết. Vân Đồn thì nằm gọn trong tay Sun Group của Lê Viết Lam và IPP của Jonathan Hạnh Nguyễn, còn Bắc Vân Phong, thì Jonathan Hạnh Nguyễn đang trình dự án đầu tư từ A đế Z với dự kiến vốn ban đầu là 50 tỷ đôla. Ở cả ba khu, không còn dù chỉ 1m2 đất vô chủ. Sau khi luật ra đời, ai vào đây phải mua lại của những ông chủ này. Họ đã chung chi với quan lại chiếm hết rồi. Luật Đặc khu chỉ để biến đất thành vàng, biến những gì đang còn là giấy thành tiền thật. Người ta nói ở Mỹ, chính tập đoàn cá mập tài chính gốc Do Thái mới là chủ đích thực của Nhà Trắng, liệu ở Việt Nam, Luật Đặc khu có phải chịu thúc bách bởi mấy ông đại gia?
Tác giả Phương Thảo hỏi, “làm gì còn gì để mà bán cho người khác?” Những tập đoàn này là của ai, núp dưới bóng ai, phục vụ cho ai, thiên hạ không có căn cứ, nhưng cũng đoán được đến 6,7 chục phần trăm, vì vậy mà chuyện hối thúc Quốc hội thông qua Luật chỉ để đồng tiền bát gạo kiếm được là thật chứ không còn ảo nữa mà thôi.
Bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói “Bộ Chính trị quyết rồi, bàn để ra luật chứ không thể không ra luật”, không biết bà đã đến Phú Quốc, Vân Đồn và Bắc Vân Phong chưa, bà ép Quốc hội ra luật chỉ là để hợp thức hoá cái mà “bọn họ” đã làm. Xưa nay vẫn vậy, chính họ nói bà chỉ làm cái việc “sắp mâm và rửa bát”, thu dọn đồ thừa, chẳng “đứa” nào thèm ngó đến bà.
Phụ nữ có tiếng cam chịu, dễ bảo, không ganh đua tham vọng. Vì thế mà Chủ tịch Quốc hội phải là phụ nữ. Bà Phóng (Tòng Thị) được cài vào Quy hoạch Quốc hội gần hai chục năm, rồi vì “kém”quá, cứ Phó hoài, nên người ta chọn bà [Ngân]. Cái ưu thế duy nhất vì bà là phụ nữ. Bà mới có lời rằng Bộ Chính trị đã quyết thì Quốc hội không thể không làm!
Thực ra, dưới gầm trời này, có cái gì không do Bộ Chính trị quyết định, không do Đảng tạo ra? Cải cách Ruộng đất 1954 Đảng tiến hành theo lệnh của Mao, Hợp tác hoá nông nghiệp, kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Đảng chép lại nguyên si của Liên Xô,Trung Quốc, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh năm 59 và 76 đều do Bộ Chính trị quyết định, nạn đói năm 1980, rồi Đổi mới 1986 đều là sự sáng suốt của Đảng. Bán và cho thuê rừng biên giới đầu nguồn là chủ trương của Bộ Chính trị. Bôxit Tây Nguyên Bộ Chính trị chủ trương cho Tàu khai thác…, rồi cái mô hình Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dở ông dở thằng, có cái gì Bộ Chính trị quyết mà không thành quái thai?
Cái cay đắng của bà Ngân là Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước lại đứng bên dưới Bộ Chính trị, chịu lệnh của Bộ Chính trị.
Nhưng lần này, nếu Luật Đặc khu ra theo lệnh Đảng, mà sau hai, ba chục năm nữa, Tàu tràn ngập cả ba khu, thì 17 vị uỷ viên Bộ Chính trị và 494 vị đại biểu Quốc hội không còn chỗ ẩn nấp nữa. Bây giờ đã có luật ngay cả những kẻ đã nghỉ hưu, không đương chức cũng có thể bị xét xử vào tù, kể cả tội tử hình.
Cuộc biểu tình đang diễn ra của cả triệu người Việt cả trong nước và ngoài nước đang báo trước những trận cuồng phong, sẵn sàng cuốn phăng mọi vật cản, có làm thức tỉnh những cái đầu u tối?
07/06/2018
B.Q.V.
Tác giả gửi BVN.

ĐỀ ÁN ĐẶC KHU KINH TẾCỦA VIỆT NAM: ẢO TƯỞNG THÀNH CÔNG

NGUYỄN ANH TUẤN/FB Nguyen Anh Tuan/ BVN 8-6-2018

Mô tả vẻ hào nhoáng của Thâm Quyến để bảo vệ đề án đặc khu của Việt Nam thật không thỏa đáng, bởi lẽ không lý giải được vì sao trong hơn 4300 đặc khu trên toàn thế giới tính đến thời điểm này, mà rất nhiều trong số đó được truyền cảm hứng từ thành công của Thâm Quyến, trường hợp thành công không phải chiếm đa số, trong khi con số đặc khu phải vật lột trong tình trạng “bỏ thì thương, vương thì tội” (white elephants/voi trắng) gây lãng phí nguồn lực quốc gia thì không hề nhỏ.
Bởi vậy cần một cách tiếp cận khác: Chỉ ra các điều kiện cần thiết để có một chương trình đặc khu thành công theo kinh nghiệm quốc tế, từ đó so sánh với đề án đặc khu của Việt Nam để ước lượng khả năng thành công của đề án này trước khi lựa chọn một thái độ đối với nó.
Hai học giả Douglas Zeng (TQ, World Bank), Hyung-Gon Jeong (HQ, KIEP) - là những người có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu về đặc khu, trong một báo cáo có tên Thúc đẩy Tăng trưởng Năng động và Sáng tạo ở Châu Á: Trường hợp Đặc khu Kinh tế và Trung tâm Kinh doanh ấn bản bởi Viện Chính sách Kinh tế Quốc tế Hàn Quốc (KIEP) năm 2016, sau khi phân tích các trường hợp đặc khu thành công ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Hong Kong, Singapore, Dubai đã chỉ ra 10 điều kiện/yếu tố để một chương trình đặc khu có thể thành công, như là bài học cho các nước đang phát triển.[1] Khuôn khổ bài viết có hạn nên không thể phân tích đối chiếu chi tiết từng vùng đặc khu Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc, mà chỉ điểm qua các điều kiện/yếu tố này, và dựa trên đó đưa ra những nhận định về đề án đặc khu của Việt Nam.
Đầu tiên, chìa khóa cho một chương trình đặc khu thành công đến từ cách tiếp cận “toàn thể chuỗi giá trị” (whole of value chain). Nôm na là xem quốc gia ấy nằm ở đâu trong chuỗi giá trị toàn cầu, muốn tiến lên vị trí nào cao hơn, và chương trình đặc khu sẽ đóng vai trò gì trong tiến trình ấy. Như Việt Nam chẳng hạn, đang ở phân khúc thấp nhất của chuỗi giá trị toàn cầu với một nền kinh tế phụ thuộc vào lãnh vực sản xuất lấy gia công thâm dụng lao động (hàng điện tử, dệt may...) làm chủ lực, thì chương trình đặc khu này sẽ giúp nâng tầm nền kinh tế quốc gia thế nào khi những nơi được chọn đều nằm xa các vùng động lực kinh tế, và lại quá chú trọng tới những lãnh vực tách biệt như casino, nghỉ dưỡng…?
Điều kiện thứ hai là một khuôn khổ thế chế hiệu quả vốn đòi hỏi cao về tính minh bạch, dễ đoán định, và khả năng tránh được những rủi ro như can thiệp chính trị hoặc đầu cơ đất đai. Trong bối cảnh các nhóm lợi ích bè phái hoành hành ở Việt Nam, chương trình đặc khu đang được giới thiệu chưa đưa ra bất kỳ giải pháp nào ngăn chặn hiện tượng này, nếu như không muốn nói là còn đang hợp thức hóa nó. Nạn đầu cơ đất đai một thời gian dài ở cả 3 địa phương, tệ hơn, còn gợi ý rằng chương trình đặc khu của Chính phủ đã thất bại ngay cả khi chưa bắt đầu.
Môi trường kinh doanh hấp dẫn là điều kiện thứ ba cho một dự án đặc khu thành công, và cũng là điểm mà các viên chức Chính phủ Việt Nam tỏ ra tự tin nhất khi mà họ thường xuyên đề cập tới mức thuế suất thấp trong đề án của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh đang tồn tại hàng ngàn đặc khu khắp thế giới, miễn giảm thuế (fiscal incentives) không còn đủ hấp dẫn vì đã trở nên quá bình thường. Vậy thì câu hỏi là nếu Singapre nổi bật với chính quyền trong sạch và minh bạch, Hong Kong thừa hưởng di sản thông luật Anh với hệ thống tư pháp độc lập, Hàn Quốc tạo ấn tượng về năng lực bộ máy, Trung Quốc với danh mục đầu tư chọn-bỏ (negative list), thì chương trình đặc khu của Việt Nam có gì đặc biệt để chào hàng các nhà đầu tư tầm cỡ quốc tế?
Yếu tố thứ tư là lập kế hoạch, thiết kế và vận hành chương trình đặc khu một cách cẩn trọng, bắt đầu ngay từ nhu cầu của nền kinh tế. Ngoại trừ một vài cái tên đã gom đất trước ở ba địa phương, có bao nhiêu doanh nghiệp Việt Nam hiện tại mong chờ đặc khu? Hay điều họ thực sư cần là Chính phủ đẩy nhanh hơn việc cắt giảm thủ tục hành chính vốn đã và đang hành hạ họ hàng thập kỷ vừa qua? Thêm nữa, dĩ nhiên các viên chức Chính phủ sẽ luôn cho rằng họ đã chuẩn bị chu đáo cho đề án này, song thực tiễn thất bại ở các khu kinh tế trước đó (vốn cũng được xếp là một loại đặc khu) thật khó để dư luận không hoài nghi về triển vọng của đề án lần này.
‘Có bột mới gột nên hồ’ - Đội ngũ lao động chất lượng cao là điều kiện thứ năm quyết định thành công của chương trình đặc khu. Và đây cũng là điểm mà đề án của Việt Nam yếu nhất. Trong khi Hong Kong - cảng thị sầm uất Á Đông với truyền thống pháp trị Tây phương trăm năm dễ dàng thu hút chuyên gia khắp nơi trên thế giới, Singapore tự tin với hệ thống giáo dục vượt trội ở châu Á, đủ sức cung ứng nguồn nhân lực chất lượng toàn cầu, Trung Quốc trông cậy vào Hoa Kiều lúc chập chững làm đặc khu, thì Việt Nam có gì? Một hệ thống giáo dục lạc hậu bởi giáo điều ý thức hệ mà điển hình là chương trình giáo dục chính trị marxist bắt buộc bậc đại học; đã thế lại chẳng thể khai thác được nguồn lực kiều dân như Trung Quốc khi mà hồ sơ hòa giải dân tộc vẫn đang bế tắc.
Điều kiện thứ sáu là tiếp thu công nghệ và sáng tạo không ngừng. Đề án đặc khu của Việt Nam đúng là có mang kỳ vọng thu hút được những dự án công nghệ cao, song như đã nói ở điểm 1, vì không đặt trong tương quan với thực trạng nền kinh tế hiện nay, kỳ vọng này khả năng cao chỉ là một ảo vọng.
Vị trí chiến lược và khả năng kết nối tạo thành điều kiện thứ bảy cho thành công của đặc khu. Đúng là cả ba vị trí được chọn có một số thuận lợi, nhưng nếu so với các trường hợp điển hình thành công trên thế giới như Thâm Quyến, Thượng Hải (TQ), Masan (Hàn Quốc), Singapore, Hong Kong thì khó có thể nói là vượt trội? Cả ba vị trí đó có nằm trên tuyến thương mại hàng hải quốc tế nào không? Có gần thị trường quốc tế rộng lớn nào không? Có được hậu thuẫn bởi thị trường hoặc tổ hợp công nghiệp nội địa nào không? Hoàn toàn không.
Yếu tố thứ tám là liên kết với nền kinh tế quốc gia. Những trường hợp đặc khu thành công đều chứng tỏ được khả năng kết nối các nhà đầu tư quốc tế với các doanh nghiệp địa phương, giúp lan tỏa ảnh hưởng tích cực cho toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó, 30 năm thu hút hơn 170 tỷ USD đầu tư nước ngoài (FDI) nhưng với trọng tâm đặt sai chỗ, Việt Nam đã thất bại trong việc xây dựng nền công nghiệp hỗ trợ tạo đà cho nền sản xuất quốc nội, thì làm sao có thể tin rằng Chính phủ lần này sẽ thành công với 3 địa điểm vừa tách biệt về mặt địa lý, vừa khác biệt với phần còn lại của nền kinh tế.
Sự hài hòa giữa phát triển công nghiệp và phát triển xã hội/đô thị là điều kiện thứ chín góp phần cho thành công của đặc khu. Đó phải là những đô thị đáng sống với môi trường trong sạch, hạ tầng phát triển và chi phí cư trú không quá đắt đỏ (ít nhất là giai đoạn ban đầu). Với trường hợp Việt Nam, thực tiễn đầu cơ đất đai và phá hoại môi trường thời gian vừa qua, đặc biệt là ở Phú Quốc, Vân Đồn đang khiến khả năng xây dựng những đô thị đáng sống như trên trở nên xa vời.
Cuối cùng, chương trình đặc khu thành công cần một cơ chế đánh giá hiệu quả khách quan để biết khi nào nên tiếp tục hay dừng lại. Với số tiền khổng lồ dự kiến lấy từ ngân sách quốc gia đầu tư cho các đặc khu, quả thật rất thiếu sót khi đề án hoàn toàn vắng bóng một cơ chế đánh giá như thế để có thể rút ra kịp thời trong trường hợp không thành công như mong đợi.
Tóm lại, xét trên cả 10 điều kiện/yếu tố góp phần vào thành công của một đặc khu theo kinh nghiệm quốc tế, chương trình đặc khu của Việt Nam tỏ ra thật kém cạnh tranh và thiếu triển vọng. Những người bảo vệ đề án này có thể có những lý giải khác nhau, song không khó để nhận ra đối tượng hưởng lợi lớn nhất từ đề án này. Trong dự thảo luật, họ được gọi tên là “nhà đầu tư chiến lược”, còn trên thực địa họ chính là một vài tập đoàn đã gom đất ở ba địa phương này với giá rẻ mạt trong nhiều năm qua, đang chờ luật thông qua sẽ kéo theo hàng tỷ USD mỗi năm (chắt bóp từ ngân sách quốc gia vốn đang eo hẹp) đổ về đầu tư giúp tăng giá trị dự án của họ lên gấp nhiều lần.[2]
PS: Bài không đề cập tới những nguy cơ có yếu tố Trung Quốc, với ý tưởng rõ ràng rằng, ngay cả khi chưa tính tới yếu tố Trung Quốc thì đề án cũng không đáng được ủng hộ khi xét tới tính khả thi và triển vọng thành công của nó.
__________
Chú thích:
[2] Dự kiến ngân sách nhà nước thời gian tới phải bỏ ra 7.5 tỷ USD cho Phú Quốc, 3.5 tỷ USD cho Vân Phong và 1.7 tỷ cho Vân Đồn - đều là những con số khổng lồ đối với tình trạng ngân sách thâm thủng của Việt Nam hiện nay. http://baodauthau.vn/thoi-su/von-nha-nuoc-chi-la-von-moi-cho-dac-khu-68492.html
Nguồn ảnh: VNExpress

NÊN CHĂNG LẬP ĐẶC KHU VỀ THỂ CHẾ?

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG/ BVN 8-6-2018

Việc Bộ Chính trị ĐCS đề xuất lập 3 đặc khu, cho soạn thảo luật, rồi thúc ép Quốc hội thông qua chứng tỏ đang mong tìm một món lợi hoặc thể hiện một ý đồ nào đó. Luật đã được nhiều người quan tâm. Vậy phải chăng nó là sản phẩm trí tuệ cao của tầng lớp tinh hoa? Không phải! Tôi đã đọc dự thảo gồm 6 chương với 85 điều và 6 phụ lục (khoảng 35 ngàn chữ), thấy rằng gần 90% nội dung là những điều nhàm chán hoặc rác rưởi, khoảng vài phần trăm là các dự kiến khoác lác, dối trá, còn lại là một số mưu đồ. Dự thảo là sản phẩm của một số đầu óc kém trí tuệ, thiếu khoa học, nhưng có thừa xảo ngôn và chước quỷ mưu ma. Nó đã gặp sự phản đối gay gắt và rộng rãi từ phía các tổ chức Xã hội dân sự, của nhiều trí thức và các tầng lớp nhân dân.
Những phản biện chỉ ra rằng, các đặc khu định thực hiện chỉ có thể phát huy tác dụng cách đây vài chục năm, trong hoàn cảnh cuối thế kỷ 20. Với tình hình hiện nay, các đặc khu như vậy không còn thích hợp, mang lại lợi ít, hại nhiều. Lợi cho một nhóm người nào đó, cho dã tâm bành trướng của Trung cộng, còn thiệt hại lớn cho Dân tộc.
Trong lúc phản đối 3 đặc khu trong dự thảo luật thì tôi thấy VN lại rất nên làm một đặc khu về thể chế. Hình mẫu của nó gần giống như Hồng Công (Một nước 2 thể chế). Nhưng Hồng Công là tiếp nối do Anh để lại mà Đặng Tiểu Bình đã khôn khéo chấp nhận. Còn đặc khu về thế chế ở VN là do chủ động lập nên. Đó là một vùng làm thí điểm, xây dựng thể chế dân chủ với tam quyền phân lập, với đa nguyên chính trị.
Về thể chế, Đảng CS kiên trì Chủ nghĩa Mác Lê với độc quyền đảng trị. Nhiều ý kiến cho rằng đó là môi trường làm phát sinh và nuôi dưỡng mọi tai họa như tham nhũng, mua quan bán chức, kìm hãm sự phát triển, xuống cấp giáo dục và đạo đức v.v… Nhiều ý kiến cho rằng, muốn phát triển đất nước thì việc quan trọng đầu tiên là cải cách thể chế, hay là đổi mới lần 2, đổi mới về chính trị, dựa trên nền hành chính pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự. Tuy vậy, Đảng không muốn cải cách theo hướng đó mà vẫn cố giữ thể chế độc tài đảng trị với Chủ nghĩa Mác Lê. Đảng cho rằng thể chế đó là ưu việt, trong khi nhiều phản biện nhận xét rằng nó là tai họa của nhân loại.
Vậy để biết đúng sai như thế nào thì trước hết Đảng cần chấp nhận đối thoại. Khi Đảng không thắng được trong đối thoại thì hãy nới lỏng ra một chút để dân làm thử xem sao. Đảng không muốn nới lỏng thì dân đoàn kết lại, đấu tranh buộc Đảng phải nới. Đó là diễn biến hòa bình, chưa phải trong toàn quốc mà mới chỉ trong một đặc khu. Tôi mong ước Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đứng ra nhận làm đặc khu như vậy, làm chủ vận mệnh của mình và nếu thành công tốt đẹp thì cả nước làm theo.
Đặc khu về thể chế nhằm đến thịnh vượng trên cơ sở giải phóng năng lực và phát triển phẩm giá con người, mang lại Tự do và Hạnh phúc cho nhân dân. Có 2 cách để lập ra đặc khu: Cách 1 - Từ trên xuống. Cách 2 - Từ dưới lên. Cách nào cũng phải xuất phát từ nhận thức và quyết tâm của một người hoặc nhóm người nòng cốt, từ đó vận động rộng ra để nhận được ủng hộ của số đông. Cách 1 xuất phát từ người có cương vị từ trong giới lãnh đạo. Cách 2 - từ người trong phong trào quần chúng, từ tổ chức xã hội dân sự.
Cần xác định rõ nghĩa vụ của đặc khu đối với Quốc gia. Đó là nghĩa vụ nộp ngân sách (đóng thuế), nghĩa vụ bảo vệ và phát triển đất nước. Những công việc cụ thể về tổ chức bộ máy pháp quyền, về phát triển kinh tế thị trường (không theo định hướng nào cả), về hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự sẽ tuân theo những qui ước chung của thông lệ quốc tế, Hiến pháp và Pháp luật hiện hành của VN. Nếu có những điều vượt ra ngoài Hiến pháp và Pháp luật thì cần xin phép Chính phủ hoặc Quốc hội và công khai cho toàn dân biết.
Trong trường hợp đặc khu được lập theo cách 2 thì Đảng không cần ra nghị quyết, Quốc hội không cần ban hành luật, chính phủ không phải chỉ đạo. Lúc này Đảng chỉ cần tôn trọng quyền lợi chính đáng của dân, có bất đồng gì thì đấu tranh bằng ngôn luận và nghị trường, không dùng vũ lực đàn áp, Quốc hội chỉ cần ra thông báo công nhận đặc khu, theo dõi, kiểm tra sự tuân thủ Hiến pháp, Chính phủ chỉ cần đôn đốc thực hiện nghĩa vụ, phát hiện và ngăn cản việc làm có hại đến quốc gia.
Sẽ có nhiều ý kiến cho rằng đây là giấc mơ giữa ban ngày, là siêu thực, là viễn tưởng. Nhưng cũng đã có nhiều người tài năng, biến được giấc mơ và viễn tưởng của mình hoặc của người khác thành hiện thực. Vậy xin thuật lại giấc mơ để bạn bè tham khảo.
N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN.
'CHỦ QUYỀN ĐẤT NƯỚC' TRONG MẮT MỘT LUẬT SƯ
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG*/ BVN 8-6-2018
Nhân một lãnh đạo cao cấp của Chính phủ Việt Nam tuyên bố rất rõ ràng về “Không một ai có thể vào đây làm việc gì khi đất nước ta đang có chủ quyền”(1)tôi, với tư cách một luật sư và đã tham gia hoạt động tư vấn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hơn 25 năm, xin có một vài chia xẻ nhỏ với các vị đại biểu Quốc hội Việt Nam, các lãnh đạo thuộc Chính phủ Việt Nam và tất cả những ai tự cho mình là người Việt Nam, những người sống chết vì dân tộc Việt Nam và vì đất nước này, với hy vọng, chúng ta cần khiêm nhường học và hiểu rõ rằng, tuyên bố mồm là một chuyện, còn thực trạng như thế nào là một chuyện khác và nó chẳng hề phụ thuộc vào những lời lẽ to lớn ai đó muốn tuyên.
Một vài chuyện đời thường nho nhỏ của một luật sư:
Chuyện 1: Tư vấn hợp đồng chuyển nhượng đất vườn ở Đà Nẵng cho một người Mỹ gốc Việt
Năm 2006, qua nhiều năm làm đối tác với một hãng luật của Mỹ ở Việt Nam, một partner (luật sư có cổ phần của hãng) của hãng luật Mỹ nhờ tôi giúp cho con trai mình (con nuôi), gốc Việt về Đà Nẵng mua mấy hecta đất vườn của ai đó mà họ hàng lâu năm.
Tôi có giải thích việc nếu là người Mỹ, không có cách gì để sở hữu và mua bán đất đai ở Việt Nam. Nhưng sau đó, vì dẫn giải nhiều đến tình cảm quê hương của bạn con nuôi với Việt Nam, rằng vì mua là cách giúp họ hàng có thêm tiền, vân vân và vân vân… tôi đành hướng dẫn bạn người Mỹ gốc Việt ủy quyền cho họ hàng của mình ở Việt Nam đứng tên mua dùm, cùng với lời cảnh báo là luôn có rủi ro nếu người nhận ủy quyền thay đổi ý định từ “giúp đỡ đứng tên hộ” sang “chiếm đoạt” luôn tài sản. Chuyện này cuối cùng diễn ra tốt đẹp, vì họ hàng của bạn này là những người nông dân chân thật.
Tuy nhiên, theo thời gian kể từ 2006 đến nay, thực tế đang diễn ra, không chỉ ở Đà Nẵng, mà ở hầu hết các khu vực có khả năng kinh doanh và làm dịch vụ du lịch, chúng ta đang nhìn thấy một sự thật: người Việt đứng tên sở hữu đất trên giấy tờ, nhưng thực tế lại là người nước ngoài, nhất là người Trung Quốc, và thậm chí tại các khu vực nhạy cảm của an ninh quốc phòng(2).
Chủ quyền là thế nào trong hoàn cảnh này?
Chuyện 2: Tư vấn tổ chức hoạt động cho một người Úc về hưu ở Hội An làm dịch vụ giới thiệu và môi giới du lịch
Tôi có quen thân với một bác giáo sư già người Úc, về hưu qua Việt Nam chơi và quyết định ở lại Hội An sống. Để có việc làm cho vui, hai vợ chồng ông quyết tâm giới thiệu Hội An với người Úc, đưa sinh viên Úc qua Việt Nam và Hội An trong các kỳ học, nhằm làm phong phú thêm những hiểu biết của người Úc về Việt Nam. Tuy nhiên, vì vấn đề báo cáo thuế và tài chính cá nhân, bác này chỉ lập công ty tại Úc, và thỏa thuận hợp tác với các cá nhân và đối tác ở Hội An, Việt Nam, mặc dù có thể bác hỗ trợ họ nhiều hơn là chỉ marketing thị trường Úc thuần túy.
Bác cũng nhờ tôi giúp tư vấn các cấu trúc và phương thức hợp tác để đảm bảo hoạt động của bác là phù hợp với Việt Nam và cả Úc. Chuyện chỉ có thế.
Nhưng khi nhìn đến các dịch vụ du lịch 0 đồng, du lịch số đông tràn lan ở các khu vực biển của Việt Nam do một số các tổ chức người Việt và nước ngoài hợp tác, mô hình hợp tác giữa đối tác Việt và nước ngoài đã bị “biến thái”, dưới hình thức, người Việt chỉ đăng ký tên và giấp phép kinh doanh, mọi vấn đề được bên nước ngoài quản lý và kiểm soát từ A đến Z(3).
Thậm chí, người Việt, ngay trên đất Việt, đã phải ca than lên “Họ nắm hết, chỉ báo số lượng người qua thôi… còn lại mọi thứ họ đều quản lý cả”… quản đến cả người hướng dẫn viên du lịch “chui”, giới thiệu sai về lịch sử đất nước Việt Nam… chúng ta cũng chả biết làm sao(4)!
Chuyện các bạn Trung Quốc giỏi làm dịch vụ thì không ai phải bàn… Vì ngay ở Mỹ, tôi cũng đăng ký tour với các bạn này khi mới sang, vì giá rẻ do họ nắm được các nguồn cung cấp dịch vụ tốt, họ phục vụ số lượng lớn người Trung Quốc nội địa đi tham quan. Nhưng ở Mỹ, cấm thấy ai giới thiệu sai về Abraham Lincoln, các tượng đài hay bảo tàng ở Mỹ… mặc dù nói thật là tôi cũng không thấy mấy ai trong các đoàn du lịch tôi đi cùng vào năm 2012 thực sự lắng nghe về lịch sử nước Mỹ. Họ thích chụp ảnh, thích ăn uống, tán chuyện ầm ĩ nhiều hơn, trên các tour đến Mỹ!
Có lẽ đi du lịch ở Mỹ khác hơn ở Việt Nam chăng? Và nếu vậy, liệu Việt Nam có nên sang học Mỹ cách quản lý du lịch sao cho không ai có thể dùng hướng dẫn viên nói sai về lịch sử đất nước mình được không?
Chủ quyền là thế nào trong hoàn cảnh này?
Chuyện 3: Tư vấn cho một tập đoàn giáo dục về phát triển dự án giáo dục tại Việt Nam
Năm 2008-2012, tôi làm tư vấn phát triển một loạt các dự án giáo dục nước ngoài vào Việt Nam, trong đó bao gồm cả việc xin đất dành cho giáo dục để xây dựng trường lớp. Nghị định 73 áp dụng cho trường hợp đất dành cho giáo dục được cung cấp đất sạch, chỉ phải trả giá bồi thường đất cho dân (theo giá thị trường hay không thì tùy chỗ, tùy quan hệ) và tiền xây dựng cơ sở hạ tầng.
Điều rất lạ, hầu hết các trường công và dân lập Việt Nam không thể hay rất ít vào được các khu dự án đầu tư bài bản về hạ tầng, có chủ đầu tư có uy tín… mà chỉ có một vài (đếm trên 1 bàn tay) có thể xin đất dự án làm trường kiểu này.
Thú vị hơn, mặc dù được ưu đãi về đất đai, thuế (thuế doanh nghiệp dành cho giáo dục là 10%), hành xử của nhà đầu tư này với giáo viên Việt Nam, phụ huynh và học sinh rất rất tệ. Điều có thể thấy rõ, là ai đó đứng “bảo kê” cho tập đoàn giáo dục này, khi bản thân họ tự động thay đổi chương trình giảng dạy (đã cam kết) với học sinh và phụ huynh, mà không hề phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì.
Năm 2012, khi kết thúc làm việc cho tập đoàn với việc bị từ chối trả lương và thưởng, tôi được chủ tịch tập đoàn này chia xẻ kinh nghiệm như sau: “Nếu mày ở Singapore bọn tao, luật pháp giúp mày thắng kiện, còn ở đây, ở Việt Nam, tiền bảo vệ tao, và tao đố mày đi kiện tao được đấy”. Điều này được chứng minh là sự thật với 3 năm sau đó, khi chủ tịch tập đoàn trả rất nhiều tiền cho một luật sư đã từng học thạc sỹ luật ở Nga và ở Mỹ về làm đại diện, theo đó, các nhà bảo vệ pháp luật của Việt Nam, nhân danh luật pháp Việt Nam ở Tòa án Thành phố Hồ Chí Minh đã gọi tôi ra khuyên “Nó là thằng to, nó lại nhiều tiền, nhiều quan hệ, em chỉ là cá nhân, em kiện làm gì, dù ai cũng thấy là em đúng luật”.
Chủ quyền là gì trong hoàn cảnh này? Ai bảo vệ người dân Việt Nam, dù họ đúng luật?
Chuyện 4: Quán ăn Huế, cà phê Việt và những món ăn Việt bị “xài” ở nước ngoài
Chuyện này thì quá xa xưa, là chuyện của quán ăn Huế tôi và gia đình yêu thích hơn 17 năm ở Sài gòn. Nó không chỉ là quán ăn, mà giống như là nơi gia đình tụ tập với người quen, vì từ chị Hai, chị Ba đến con cái họ, gia đình tôi quen và thân lắm, dù chỉ là qua ăn chút vài đĩa bánh bèo, bát bún bò Huế, nhưng đúng là Huế.
Năm 2015, thấy chị Phương - chị Ba và là người quản lý quán hay đi vắng, tôi hỏi thăm thì được biết, đợt này, có ai đó bên mấy thành phố lớn thật là lớn của Trung Quốc mời chị sang hợp tác làm ăn… Chị dạy họ cách nấu ăn, quản lý nhà hàng từ kinh nghiệm mấy chục năm gia đình chị có, họ đầu tư vốn, mặt bằng, con người… rồi lời chia 50:50. Chị Phương say mê lắm, đi đi lại lại suốt mấy tháng gần cả năm, sau đó thở dài bảo, nó bảo là cách nấu của mình dạy nó không đúng, nó không muốn hợp tác nữa!
Chuyện chỉ có thế thì thôi… đành bảo ngu ráng chịu vậy! Nhưng đâu chỉ có thế?
Khi tôi đi dọc theo các bang và thành phố lớn ở Mỹ đợt vừa rồi, tôi mới nhận ra một thực tế: phở Việt được nấu bởi người Hoa, cà phê Việt (hoặc được quảng bá là của Việt), nhưng không hề có gì chắc là cà phê Việt… tất cả đều gây hiểu là của Việt Nam, trừ người chủ là người Mỹ gốc Hoa.
Trong một thời buổi toàn cầu này, việc lấy công thức rồi về tự xào nấu, rồi tự quảng cáo là nguồn gốc từ đâu đó (lợi dụng uy tín thương hiệu địa lý mà người ta mất hàng chục, hàng trăm năm gây dựng), có lẽ cũng là chuyện thường tình thì phải… nhưng đến khi phải ăn sushi (mà tôi tự thấy là đồ dởm), và cũng của một ai đó gốc Hoa, thì tôi nhận ra, có lẽ lời nhận xét của Michel Dallemange - Chủ tịch Tập đoàn Unilever (2000-2008) về hàng giả và cố tình giả xuất xứ vẫn đúng cho Việt Nam, và không chỉ Việt Nam
Những gì là tốt đẹp của đất nước chúng mày (Việt Nam), chỉ trong vòng có vài tuần, vài tháng và vài năm… nếu không có chính sách bảo vệ thương hiệu như một tài sản quý, tao không nghĩ Việt Nam sẽ còn lại cái gì”
Liệu ai còn thích ăn sushi mà không thể nhận ra đó là sushi của Nhật? Và tương tự vậy, với phở, với cà phê Việt và vô vàn các món ăn khác được “fake hóa” dưới danh nghĩa cho “phù hợp với người địa phương” ở Mỹ có là lý do chính đáng…
Chủ quyền là gì trong những câu chuyện về ẩm thực, về văn hóa ẩm thực, về những hàng fake đội lốt Việt Nam ở nước ngoài?
Tôi muốn nhận được trả lời từ các lãnh đạo Việt Nam về những vấn nạn trên.
Hãy chấm dứt tuyên bố mồm về chủ quyền to tát, trong khi những hành động nhỏ nhưng thiết thực và có ý nghĩa sống còn với người dân, với đất nước thì bị “tê liệt” từ não trạng, vì tất cả những hiện tượng trên (chưa bao gồm đến những vấn nạn “khủng khiếp” của hệ thống những kẻ bán chủ quyền đất nước và nhân dân Việt Nam qua mạng internet và tài khoản hơn 60 triệu người Việt), đã và đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ngay trên đất nước này rồi.
  • N.T.L.H. Đoàn Luật sư Hà Nội
__________
Tài liệu tham chiếu:
(1) https://baomoi.com/luat-dac-khu-khong-ai-co-the-vao-day-lam-viec-gi-khi-ta-dang-co-chu-quyen/c/26312696.epi
(2) http://baophapluat.vn/kinh-te/he-luy-tu-viec-nguoi-nuoc-ngoai-lach-luat-mua-dat-ven-bien-da-nang-384188.html
(3) https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/kiem-soat-hanh-vi-tiep-tay-nguoi-nuoc-ngoai-lam-du-lich-chui-930316.html
(4) https://nld.com.vn/thoi-su/nguoi-trung-quoc-huong-dan-du-lich-trai-phep-huong-dan-vien-tieng-hoa-keu-cuu-20170920155313893.htmhttps://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/200-huong-dan-vien-buc-xuc-vi-nguoi-trung-quoc-lam-du-lich-chui-3644348.html;
Tác giả gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét