Mấy ngày mừng Giáng sinh và Tết Tây, vợ tôi, bà nữ sĩ Băng Thanh bảo, sắp đến năm Nhâm Dần (Năm con Cọp Trắng) có mấy chuyện Hổ hay, anh nên đọc. Tôi bèn lấy Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh ra đọc.
Vũ Trinh là một nhà văn hóa lớn của nước ta. Ông sống từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 (1752-1827). Ông để lại nhiều thơ văn, đặc biệt, là người biên tập chính “Hoàng Việt Luật lệ”. Lan Trì Kiến văn Lục, là tác phẩm văn xuôi có nghĩa là: Chép chuyện nghe, thấy bên ao Lan. Vũ Trinh lấy biệt hiệu là Lan Trì Ngư giả, nghĩa là ông già câu cá ở hồ Lan).
Trong tác phẩm này, ông ghi chép bốn chuyện về hổ, rất có ý nghĩa. Ngoài chuyện kể, Vũ Trinh để lại những lời bình rất thời sự với hôm nay. Tôi xin chép ra, hầu quý bạn đọc, nhân khi vừa ngắm hoa, vừa nhấm rượu để đón Xuân Nhâm Dần. Năm Nhâm Dần này, nạp âm hành Kim, màu Trắng, phương Tây, đều ngụ nhiều ý nghĩa, nên suy ngẫm.
Tôi cũng ước ao như Vũ Trinh: “Làm sao có được trăm nghìn vị chúa sơn lâm như thế để trừ hết mọi sự bất bình cho nhân gian hôm nay. Và ước gì có thể thả bà hổ này ra mà mời những vị quan cao kia, những kẻ ngồi cao ngất ngưỡng trên công đường mà nhai xương hút tủy người ta, vào trong rọ!”
Nhớ lại cách đây mấy ngàn năm, Khổng tử cũng đã kể chuyện Hà chính: Có bà mẹ làm nhà ở ven núi lắm cọp beo. Hỏi, bà ấy bảo, thà ở với hổ báo, còn hơn ở với hà chính ở dười kia. Hà chính nghĩa là chính trị hà khắc bạo ngược.
***
HỔ CÓ NGHĨA*
Huyện Đông Triều[1] có một bà đỡ đẻ họ Trần. Một đêm nghe tiếng gõ cửa, bà ra mở thì không thấy ai. Đang nhìn quanh, bỗng một con hổ nhảy tới cõng bà đi. Thoạt tiên bà sợ gần ngất đi, sau tỉnh lại thấy hổ ôm bà vào bụng bằng một chân rồi đi như bay. Mỗi khi qua chỗ rậm rạp thì lấy tay gạt gai góc mở lối. Đi dần dần, tới một bụi rậm trong núi sâu, hổ đặt bà xuống. Nhìn thì thấy có một con hổ cái đang lăn lộn, cào đất. Bà nghĩ hổ sắp ăn thịt mình nên sợ run không dám nhúc nhích.
Lát sau hổ cầm tay bà dắt lại, nhìn hổ cái mà rơi nước mắt. Nhìn kỹ, bà thấy trong bụng hổ cái có vật gì đang động cựa, biết là hổ sắp đẻ. May vừa có liều thuốc “thôi sinh”[2] dắt trong vạt áo, bà liền múc nước suối hòa thuốc cho uống, thấy hổ mẹ bớt đau, bà lại lấy tay ấn xoa lưng, bụng hổ, một lát thì hổ đẻ được. Nhìn hổ đực sắc mặt vui mừng, đùa giỡn với con, hổ cái nằm lả xuống, dường như mệt lắm.
Hổ đực đến bên gốc cây, chống tay quỳ xuống đất, vừa quỳ vừa nhìn bà, lát sau đưa ra một lạng bạc trắng. Bà mụ biết là hổ trả ơn, liền nhận lấy, buộc vào thắt lưng. Thế rồi hổ đực đứng dậy, vừa đi thong thả vừa ngoái nhìn bà, bà liền đi theo. Ra khỏi rừng được vài mẫu thì trời tang tảng sáng, bà giơ tay nói:
– Xin chúa rừng trở lại!
Hổ mới dừng lại từ tạ, còn cúi đầu, vẫy đuôi như tiễn biệt bà. Chờ cho bà đi đã hơi xa, hổ mới gầm lên một tiếng to rồi đi. Bà về tới nhà, đem cân thỏi bạc thì được hơn mười lạng. Năm ấy mất mùa, bà nhờ số bạc ấy mà được sống.
II
Một người tiều phu nọ ở Lạng Giang[3] hái củi dưới chân núi. Nhìn xa xa phía thung lũng ở ngọn núi trước mặt, thấy cây cỏ lay động không ngừng, anh liền vác búa đến xem. Lúc đầu thấy một con hổ trắng to bằng con trâu, khi thì cúi đầu đập đất, khi thì nhảy lên nhảy xuống, thỉnh thoảng thò tay móc họng, miệng há to như cái sàng, máu chảy lênh láng. Nhìn kỹ trong miệng hổ, thấy một chiếc xương nằm ngang cổ họng. Tay hổ móng to, càng moi chiếc xương càng thụt vào sâu. Người tiều phu vừa uống rượu nên bạo gan, từ trên cây nói to:
– Họng ông đau à? Đừng cắn, tôi sẽ lấy xương ra cho.
Lập tức hổ phủ phục xuống đất, há mồm quay về phía người tiều phu như cầu cứu. Anh tiều phu trên cây từ từ tụt xuống, thò tay vào họng hổ, lấy ra chiếc xương trâu to như bắp tay. Hổ nhìn khúc xương liếm mõm, vừa thong thả bước đi vừa ngoảnh lại nhìn người tiều phu. Anh chàng hái củi hô to lên rằng:
– Nhà tôi ở thôn ấy, có được mồi ngon của rừng hãy nhớ nhau nhé!
Người tiều phu về được mấy ngày, một đêm khuya nghe ngoài cửa có tiếng kêu dữ dội. Sáng hôm sau mở cửa, thấy một con hươu chết nằm đó. Mấy năm sau, người tiều phu chết. Lúc sắp chôn, hổ bất chợt đến trước mộ nhảy nhót vật vã, những người đến đưa tang chạy tản đi hết. Đứng nhìn từ xa thấy hổ dụi đầu vào áo quan gầm hét, rống lên một tiếng to, chạy quanh mấy vòng rồi đi. Từ đó, mỗi khi đến ngày giỗ người tiều phu, hổ đều đem dê hoặc lợn đến để ngoài cửa từ hôm trước.
Lời bình (không rõ của ai): “Khả dĩ người không bằng hổ chăng?”
Trần Thị Băng Thanh dịch
HỔ NGHĨA HIỆP*
Huyện Bảo Lộc[4] có thôn dân tên là Hoàng Mỗ, nhà khá giả, lấy vợ họ Nguyễn, người cùng ấp, được mấy năm, vợ ốm chết, để lại một đứa con trai bốn năm tuổi, gửi cho bà ngoại là cụ Nguyễn nuôi nấng. Thỉnh thoảng Hoàng đến nhà bà nhạc thăm con, hoặc bế con về nhà, mươi ngày lại đem sang gửi.
Ấp bên có một người góa chồng, Hoàng chợt có việc qua ấp đó, trông thấy ưng ý lắm, nhờ bà mối đánh tiếng. Người đàn bà ấy từ chối rằng:
– Tái giá mà được người như ông ấy là tốt rồi. Hiềm vợ trước để lại đứa con trai, vợ kế cùng ở chung với con vợ trước là việc rất khó. Để mặc cho nó bướng bỉnh, lêu lổng thì người ta bảo là mình ghẻ lạnh với nó, còn nếu động đến roi vọt một tí thì những lời gièm chê mẹ kế ác sẽ om sòm lên ngay[5]. Nhờ bà thay tôi tạ lỗi với ông Hoàng rằng tôi không thể làm vú nuôi cháu thay người trước để bị người ngoài bình phẩm được.
Bà mối về nói lại lời từ chối ấy. Sau đó Hoàng vẫn ưng cô ta, không bỏ được, nghĩ mãi chỉ có cách làm mất đứa con đi thì mới lấy được cô ta, bèn nảy ý độc ác.
Mấy ngày sau, Hoàng dắt con vào trong núi sâu, lừa con rằng mình đi tìm quả cho con ăn rồi bỏ con ở lại về thẳng. Núi ấy có nhiều hổ, Hoàng về đến nhà nghĩ bụng con thế nào cũng bị chôn trong bụng hổ, sợ bị bà nhạc tra hỏi, bèn đắp một ngôi mộ ở ngoài đồng giả làm nơi chôn con.
Bấy giờ đã nửa đêm. Bà Nguyễn ở nhà nghe tiếng gõ cửa, ngờ là hổ, đóng chặt cửa không dám ra. Kế đó bà nghe tiếng trẻ khóc gọi, lấy làm lạ, mở ra xem thì thấy cháu đứng ngoài cửa. Bà vừa sợ vừa mừng hỏi:
– Cha cháu đâu? Sao cháu lại đến một mình vào lúc khuya khoắt thế này?
Thằng bé đáp:
– Lúc chiều tối cha dắt một mình cháu lên núi. Cháu ngồi ở gốc cây đợi cha, mãi không thấy cha trở lại, cháu sợ, cháu khóc, bỗng một con mèo vàng to bằng con trâu cõng cháu đến đặt ở đây rồi bỏ đi, cháu không biết là nhà bà.
Bà cụ lấy làm kinh lạ, ôm cháu mà khóc. Ngay lúc đó nghe tiếng hổ gầm gừ ngoài cửa, bà ở trong nhà nói vọng ra:
– Đa tạ sơn quân cứu cho cháu tôi được sống. Già này không có gì tạ ơn ngài, chỉ có con lợn trong chuồng, kính mời ngài một bữa.
Tức thì nghe thấy tiếng bắt lợn. Gà gáy xong lại nghe tiếng lợn kêu từ xa sau đến gần, vào đến chuồng thì thôi. Sáng ra xem thấy có nửa con lợn chết nằm ở sân, trong chuồng lại có một con lợn nữa, to hơn con của nhà nhiều. Bà cụ ngạc nhiên quá, ngay sáng hôm ấy sang nhà con rể hỏi cháu đâu. Hoàng đáp:
– Cháu bị cảm đột ngột, chạy chữa không khỏi nên mất lúc nửa đêm rồi.
Hoàng lại dẫn bà cụ ra đồng chỉ nấm đất nói:
– Cháu nằm ở nơi đây.
Bà Nguyễn sai đào lên thì chẳng có gì cả, bà vờ khóc bảo:
– Chắc lúc chôn cháu, con chôn theo nhiều quần áo nên bị kẻ gian trông thấy chúng đã đào lên vất xác đi rồi. Ở bên mẹ còn vài cái áo của cháu, anh theo mẹ về lấy rồi đốt cả đi. Mẹ đã ở tuổi xế chiều, vãn bóng không nỡ nhìn thấy những vật thương tâm ấy nữa.
Hoàng đi cùng mẹ vợ, vào đến cửa thấy con vịn ngưỡng cửa tươi cười luôn miệng reo “cha đến rồi!” Hoàng biến sắc lùi ra, bà Nguyễn níu lại, Hoàng giằng đứt vạt áo bỏ đi.
Bà cụ đem việc đó thưa lên quan, Hoàng bỏ trốn sang thôn khác. Người làng ghét hắn vô hạnh, dò theo dấu vết bắt được, tra hỏi, hắn phải nhận tội. Quan cho đó là hành động thương luân bại lý, định ghép tội nặng. Hoàng hối lộ nhiều nên chỉ bị đánh đòn rồi tha. Hắn ra về, tối đến cổng làng có con hổ nấp trong bụi rậm gầm lên nhảy ra vồ rồi chạy thật nhanh. Nghe tiếng Hoàng kêu cứu, dân làng cầm đuốc đuổi theo, cách làng chừng một dặm thấy thi thể Hoàng đã nát vứt trên đường, cách đó hơn một trăm bước thấy một con hổ mắt sáng như đuốc đang thong thả đi vào núi.
Việc này xảy ra năm Canh Tuất (1790), em họ tôi là Trần Danh Lưu lên Lạng Sơn nghe thấy được việc đó.
Lan Trì Ngư giả bàn rằng:
Nhân nghĩa lẫm liệt thay vị chúa sơn lâm này! Đối với đứa bé thì ôm ấp, bảo hộ, che chở, yêu thương như với con nhỏ; đối với bà mẹ thì làm ơn nhiều, nhận báo đáp ít, như đối đãi với người nhà; còn đối với Hoàng thì quyết liệt, dứt khoát như hiệp khách, kiếm tiên, trị tội kẻ bất nghĩa. Làm sao có được trăm nghìn vị chúa sơn lâm như thế để trừ diệt hết mọi sự bất bình cho nhân gian!
Đương lúc Hoàng mang con vào bỏ trong rừng, lẽ nào hổ không tru diệt được hắn ngay mà vẫn lưu lại, bởi vì để cho mọi chuyện diễn biến khúc chiết, khiến tội ác của hắn lan truyền khắp làng xóm, quan trên có thể hiểu rõ sự xấu xa của hắn. Vị chúa sơn lâm này cũng có tấm lòng vậy!
Có người nói: Hổ là loài vật, làm sao biết được [Hoàng là kẻ bạc ác] việc này chắc là ma trành[6] nghĩa hiệp dắt dẫn vậy. Nói rằng: Tất cả loài có lông có khiếu đều có tính người, huống nữa lại là bậc nghĩa hiệp, sao có thể là ma trành được? Há rằng trong buổi trời long đất lở, tính ngũ thường lại không được phú bẩm cho người mà chỉ phú bẩm cho loài vật sao?
Phạm Tú Châu dịch
***
HỔ CÓ LÒNG NHÂN*
Vương phủ có cuộc tế lớn, các trấn đều đem dâng thú rừng. Thái Nguyên dâng một con hổ mẹ rất to, lông vàng vằn đen, trán và hai vai đều có chấm trắng to bằng bàn tay, nhốt ở cũi đá bên hành lang. Lễ xong, cho người vào xem. Bỗng có người đem đến mười cân thịt, đặt trước mặt hổ, rơi nước mắt vái lạy. Mọi người hỏi vì sao, người ấy nói:
– Đây là ân chúa của tôi ba năm trước. Năm đó tôi đi gánh thuê cho người ta được ít tiền mang về. Khi qua đường núi thì trời tối, không có chỗ nào nghỉ trọ, mới trèo lên cây cao gác cành làm giá mà nằm. Chập tối thấy bà hổ này đến dưới gốc cây nhìn lên gầm mãi. Tôi nghĩ không có đường nào thoát chết nên quay về phía hổ, chắp tay khấn rằng: “Tôi một mình nơi đất khách, tính mệnh treo ở miệng ngài. Duy cuộc sống của cả nhà chỉ trông vào một mình tôi, nếu ngài không tha thì tôi xin lết đến nộp mạng. Nhưng như vậy già trẻ của cả một nhà sẽ bị đói rét mà chết!”. Nghe nói xong, hổ cúi đầu nép mình nằm xuống gốc cây, ngủ ngáy như sấm. Đêm khuya, nghe tiếng người từ xa đi lại, gọi hỏi:
– Dì ung dung quá! Đêm nay được mồi ngon, có cho cháu ăn với không?
Hổ đáp:
– Ta mệt nghỉ ở đây, các con đi chỗ khác kiếm ăn!
Bấy giờ tôi nhìn xuống thì hổ đã biến hình, đội khăn trắng, mặc áo đỏ, rõ ra một người đàn bà đàng hoàng.
Tôi ở trên cây, suốt đêm không dám thở. Gà gáy, hổ từ từ trở dậy rồi đi. Đến khi trời sáng rõ, trên đường có người đi lại, tôi mới vin cành tụt xuống.
Hôm qua thấy bà hổ này sắc lông như thế, tôi hỏi chuyện cũ, hổ nhìn tôi rơi nước mắt, gật đầu hai cái. Tôi cảm ơn sâu cứu mạng của hổ, sửa chút lễ mọn để tỏ lòng thành của mình.
Nói xong lại vái năm vái, khấu đầu ba lần rồi đi.
Lan Trì Ngư giả bàn rằng: Hổ là loài ác thú mà còn không nỡ nghe tiếng kêu ai oán của người. Thế mà những kẻ ngồi cao ngất trên công đường nhai xương hút tủy người ta, thấy những lời kêu oan thảm thiết dưới thềm lại bỏ ngoài tai chẳng đoái, táng tận nhân tâm như thế mà chẳng thẹn với bà hổ này hay sao! Ước gì có thể thả bà hổ này ra mà mời những vị quan cao kia vào trong rọ!
Trần Thị Băng Thanh dịch
_______
*Nguyên văn: 義虎Nghĩa hổ, có 2 truyện.
[1] Đông Triều: Thuộc trấn Yên Quảng, nay là tỉnh Quảng Ninh.
[2]Thuốc “thôi sinh”: thuốc kích thích cơn co dạ con giúp sản phụ đẻ nhanh.
[3]Lạng Giang: là một vùng đất cổ, từ thời xa xưa thuộc lộ Vũ Ninh, trải qua các đời đều có sự thay đổi, hiện là một huyện miền núi thấp, nằm ở phía Bắc tỉnh Bắc Giang, bắc giáp huyện Hữu Lũng – Lạng Sơn, tây là huyện Tân Yên, Yên Thế, nam là thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng, đông giáp huyện Lục Nam.
*Nguyên văn: 俠虎Hiệp hổ
[4]Bảo Lộc: thuộc phủ Lạng Giang; trấn Kinh Bắc, nay là vùng đất Bắc Ninh, Bắc Giang.
[5] Mẹ kế ác: Chỗ này tác giả dẫn điển Mẫn Tử Khiên. Ông tên là Mẫn Tốn, người nước Lỗ, học trò Khổng Tử, một trong 24 tấm gương hiếu nghĩa. Mẫn Tử mồ côi mẹ, cha lấy vợ kế, sinh thêm được hai em. Người mẹ kế cay nghiệt, bạc đãi Mẫn Tử, bà chỉ lo chăm chút con mình. Trời rét hai con bà áo bông áo kép, còn Mẫn Tử chỉ mặc áo lót bông hoa lau. Một hôm trời rất rét, tuyết dầy, Mẫn Tử bị sai đẩy xe, ông cóng tay đánh rơi càng xe. Người cha lúc đó mới biết, định đuổi mẹ kế đi. Nhưng Mẫn Tử xin cha để mẹ lại, vì nếu mẹ đi rồi thì cả ba anh em ông đều sẽ khổ. Mẹ kế lúc đó hiểu ra mới yêu quý Mẫn Tử. Trong truyện Nhị thập tứ hiếu có câu: Chẳng thương chút phận long đong/Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân! (BT chú thích)
*Nguyên văn: 仁虎Nhân hổ
[6]Ma trành: người bị hổ ăn thịt có khi thành tinh, làm tay sai cho hổ, chuyên dẫn hổ đi bắt người, có tên gọi là “ma trành”; ở đây ý nói Ma trành dắt dẫn hổ làm việc nghĩa hiệp.
Nguyễn Khắc Mai
PHIẾM HỔ PHÚ
CAO BỒI GIÀ/ TD 27-1-2022
Kìa thấp thoáng không khí xuân về;
Đà râm ran tạch đùng pháo nổ.
Tống tiễn năm Trâu;
Nghinh chào niên Hổ.
Mừng xuân tân kỷ, mạo bàn tếu táo muôn sự thế chuyện đời;
Nhân tết Nhâm Dần, lạm phiếm tào lao về họ miêu nhà Hổ.
Đời lắm tên gọi: Nào Ông Ba Mươi rồi Kễnh – Khái – Dần;
Người đặt nhiều danh: Đây Chúa Sơn Lâm hoặc Hùm – Cọp – Hổ.
Tộc dòng Mão, nhưng bơi lội thực tài;
Nòi giống mèo, nhưng trèo leo vụng dở.
Dũng mãnh nòi chi sánh Hùm;
Dữ dằn giống nào hơn Hổ.
Lang thang bơi lội quanh đầm nước sông hồ;
Sinh sống rập rình khắp rừng xanh đồng cỏ.
Ông Ba mươi vốn ung dung dạo khắp núi rừng;
Chúa Sơn Lâm ắt uy nghiêm quản riêng lãnh thổ.
Giương oai xua loài beo gấu, hề đoái chi lũ cáo bầy lang;
Khoái khẩu xơi bọn hươu nai, chứ thèm chi đùi gà thịt thỏ.
Vì nỗi tan tành núi đỏ, khiến Hùm – Cọp đau thương lâm cảnh rỗng ruột tiệt nòi;
Bởi người phá nát rừng xanh, nên Kễnh – Dần tức giận về làng tha trâu bắt chó.
Nay chỉ tồn sinh vài chốn rừng sâu;
Giờ đang dẫn đầu trên trang sách đỏ.
Tiệt nòi tiệt giống, hoang vắng trên cõi Đông Dương;
Đông họ đông hàng, thoải mái quanh vùng Ấn Độ.
Là biểu tượng của lắm đoàn quân;
Là Lôgo của nhiều lãnh thổ.
“Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt”, ông hổ sa cơ quặn nỗi nhớ rừng; (1)
Ôm bao mối muộn sầu chốn thành đô, gã hùm thất thế buông lời than thở.
Truyền thuyết rằng:
Xưa ngạo chê trâu, cam để lão người khiển, mãi kéo ách bừa xác nhọc mỏi ê; (2)
Rồi nằm cuộn chão, hòng thấy cái trí khôn, nên hứng lửa thiêu lông thành vằn vọ.
Truyện Thủy Hử, chỉ vài thế tuyệt chiêu, đấm vỡ đầu cọp, thật nổi danh tài cự phách là gã Võ Tòng;
Sử nước Nam, với đôi tay dũng mãnh, đòn gãy cổ hùm, kém thua chi sức phi thường có Ngài Như Hổ. (3)
Ca dao lắm ngữ luận kim;
Tục ngữ nhiều câu bình cổ:
Duyên cần giữ, “nữ thực như miêu”;
Sức để cầy, “nam xực như Hổ”.
Ba cô đập chột một chàng;
Quần hồ cắn nhừ mãnh hổ (4).
Liều lĩnh “vuốt râu hùm”;
Dại dột “sờ dái ngọ”.
“Ky cóp cho Cọp nó xơi”;
Khoe khoang cho trộm nó thó.
Đời chẳng lạ, gan sứa mà múa miệng Hùm; (5)
Đời cũng hay, tài còm lại cong mồm nổ.
“Cọp chết để da”, ngai rồng một mảnh, còn phủ rạng sắc vằn;
“Người chết để tiếng”, bia miệng ngàn năm, mãi truyền trơ nỗi hổ (6).
Hùm thiêng thất thế cúi hèn; (7)
Quân tử sa cơ tất bó.
“Rung cây nhát khỉ”, đòn tâm lý cao thủ giỏi bày;
“Điệu hổ ly sơn”, mưu kế xưa tướng tài khéo trổ.
Chớ vênh kiêu như “cáo đội lốt hùm”;
Rồi khốn nạn như “khỉ ngồi lưng hổ”.
Phiếm chuyện Hổ xọ sang chuyện đời:
Có lắm kẻ vênh râu cáo, bởi mượn oai hùm;
Lại nhiều gã hiếp người đời, khi ngồi ngai hổ.
Hùm đói không xơi xác thúi, ấy lắm quan ăn bẩn mới kinh;
“Hổ dữ chẳng ăn thịt con”, vậy mà người phá thai sao nỡ?
Người có biết leo lên ngôi chẳng xứng, kỳ “dễ tựa tróc Hùm”;
Kẻ có hay thoái lui mạng muốn toàn, lại “nan tuồng phóng Hổ”.
Giữa lúc tranh giành, lắm kẻ vì phần thua miếng thắng, liền giở thói cáo cáo cầy cầy;
Trong cơn kích động, nhiều anh chửa tường lời đúng lẽ sai, vội xử sự hùm hùm hổ hổ.
Hóa hư bột hư đường;
Đâm mẻ đầu mẻ cổ.
Chữ xưa rằng:
Biết người biết mặt, chứ làm sao hiểu tận lòng người;
Họa dáng họa bì, rõ nan chi vẽ tường cốt Hổ (8).
Cọp trong chuồng tựa hồ trong chảo, dễ nấu cao giỏi gì mà khoe;
“Tửu nhập lâm như hổ nhập tâm”, tránh xa bợm cớ chi phải hổ (9).
Bả lợi danh, chớ tham lam vét phần vơ miếng, kẻo rồi rơi tõm miệng Hùm;
Đường quan lộ, đừng mưu mẹo leo ghế chạy quyền, coi chừng lâm thế cỡi hổ.
Tin chẳng mới, đã dăm năm đọc nghe muốn nhàm;
Chuyện không đùa, thật trăm phần đến xem thì rõ:
Nuôi hổ như nuôi mèo;
Sát cọp tuồng sát chó.
Chuyên kiếm mối lợi, làng Đô Thành lớn mật nấu cao;
Chẳng gờm di họa, dân Nghệ An to gan dưỡng Hổ (10).
Đem nấu cốt, món quan ông lắm mộng thòm thèm;
Lột lấy da, thứ đại phú muôn tiền ham hố.
Ai chê kiểu cách sinh kế liều;
Ai bĩu mô hình kinh tế nhỏ?
Năm mới năm me:
Hình tượng Hổ, tạo uy dũng cánh “Mai Lộc” khoe vàng;
Chậu gốm Hùm, tăng cốt cách gốc “Đào Phai” thắm đỏ (11).
Lên bìa lên lịch, phô tính cách kiêu hùng Chúa Sơn Lâm tỏ vương quyền đế vương;
Tràn báo tràn phim, khoe dáng vẻ oai lẫm Ông Ba Mươi không hổ danh nhà Hổ.
Tiễn Sửu Vương thoái vị, mong trời cuốn sạch sành sanh dịch họa tai ương;
Nghinh Hổ Đế đăng quang, vọng đời tràn ẵm ăm ắp phúc tài lộc thọ.
Nhắn Hùm Vương:
Ngai tới lượt, phân sao tỏ phường nịnh tôi trung;
Cờ đến cơ, phất sao đặng xứng đầu đáng mỏ.
Tha hết phường tham nhũng quẳng kho;
Vồ sạch bọn quỷ ma ăn cỗ.
Cho xã hội công bằng;
Để đồng bào đỡ khổ.
Mang cơm no áo ấm, lạc nghiệp muôn nhà;
Trị quốc thái dân an, ấm yên trăm họ.
Năm Sửu năm Ngưu khứ, muôn họa phắn chiều lòng, trăm họ tết an khang;
Niên Dần niên Hổ lai, vạn sự hanh như ý, muôn nhà xuân hạnh ngộ.
Chúc thương gia buôn bán đắt hàng;
Chúc nông gia bội thu đầy khố.
Dân lao động, đều sống thừa dư;
Người công nhân thoát đời nghèo khó.
Nụ cười tươi nở môi người;
Tiếng hát hoan tràn xóm ngõ.
Chúc kẻ kẻ năng động hơn Hùm;
Chúc người người sức cường như Hổ.
Đáo hội đáo hè, phiếm linh tinh vớ vẩn, đôi điều nghe lóm đó đây ;
Vui xuân vui tết, bàn tếu táo tào lao, mươi chuyện nhặt gom kim cổ.
______
Ghi chú:
(1): Câu đầu trong bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ.
(2): Truyện cổ tích xưa kể rằng: Hổ thấy trâu cứ phục tùng nông dân kéo cầy, nên chê trâu là dại, sao lại sợ lão người nhỏ bé kia. Trâu nói rằng người tuy bé nhỏ, nhưng có trí khôn hơn muôn loài. Hổ gặp người và đòi cho xem cái trí khôn, người bảo đang để cái trí khôn ở nhà. Hổ bảo người về lấy cho ta xem. Người nói lỡ ta về mi chạy trốn thì sao. Hổ bảo cứ trói ta lại rồi về lấy, ta làm gì phải trốn. Thế là hổ để người trói mình lại và người nông dân đã đốt lửa thiêu hổ rồi nói đó trí khôn của ta đó. Hổ đau quá vùng vẫy khiến dây đứt rồi chạy vào rừng. Từ đó lông hổ thành vằn vện do lửa chưa bén vào các chỗ thừng trói.
(3): Lê Như Hổ là biệt danh của Lê Văn Khôi, người con nuôi của Tả quân Lê văn Duyệt.
(4): Từ câu tục ngữ “mãnh hổ nan địch quần hồ”
(5): Từ câu tục ngữ “gan sứa miệng hùm”.
(6): Từ câu tục ngữ “cọp chết để da, người ta chết để tiếng”.
(7): Từ câu tục ngữ “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”.
(8): Từ câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt/ Tri nhân tri diện bất tri tâm”.
(9): Từ câu “Tửu nhập tâm như hổ nhập tâm”.
(10) Ở làng Đô Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, dân xây chuồng nuôi hổ như heo để bán thịt da, cao cốt.
(11): Năm nay hoa mai và đào được trưng bày trong các chậu gốm hình Hổ dáng cọp.
Cao Bồi Già
CÂU ĐỐI TẾT NĂM DẦN
HÀ SĨ PHU/ TD 28-1-2022
I. Kiếp HỔ khóc cười và giấc mơ HỔ thiện!
Hổ vốn ở tận rừng sâu nhưng mối liên quan đến con người thì ít dã thú nào bì kịp, vì Hổ đồng nghĩa với sức mạnh, với bạo lực, bạo quyền, là những điều con người vừa kính vừa sợ.
Ở nơi rừng rậm thì bạo quyền làm nên chức tước, Hổ và Sư tử tranh hùng làm Chúa Sơn lâm. Sư tử đực dáng bộ đường bệ oai phong, tiếng hống vang động cả núi rừng và sống tập đoàn như một “triều đình phụ hệ”. Còn Hổ thì mạnh ở sự cân đối, linh hoạt biến hóa và bền bỉ hơn nên nếu đấu tay đôi thì phần thắng cuối cùng thường nghiêng về phía Hổ. Nhưng người châu Á, châu Âu và châu Phi thường coi Sư tử mới là Chúa Sơn lâm. Cũng như xã hội con người, cấp trưởng thường mạnh ở triều đình và mạnh ở oai phong, chứ đấu tay đôi thì chắc gì đã thắng được cấp phó? Sư tử kém thích nghi, ngày càng khó sống, chắc phải nhường phủ Chúa cho mãnh Hổ thôi.
Chúa Sơn lâm Hổ rất kỵ văn minh chẳng thích gần người, nhưng con người cứ sùng kính đưa Hổ vào đời sống của mình, tôn là Ông Hổ hay Ông Ba mươi. Khát khao quyền lực thì sinh ra sợ sệt và sùng bái quyền lực. Sáng dậy, thấy quanh nhà có vết chân “lạ” của Hổ thì xì xào “Đêm qua Ông về, Ngài về!” (Mặc dù “Ngài” về chỉ để bắt lợn cho đầy túi tham!). Tên của Hổ chỉ dùng vào việc tôn kính, tướng võ oai phong gọi là Hổ tướng, cha con cùng tài giỏi là bảo “Hổ phụ sinh Hổ tử”…
Nhưng ở đời, “cao nhân tất hữu cao nhân trị”, ưu điểm của Hổ lại gây tai họa cho Hổ. Con người dần văn minh lên, có vũ khí, có mưu mẹo để săn bắt Hổ thì danh tiếng xưa kia lại trở thành đại họa cho Chúa Sơn lâm. Bộ da Hổ rất đẹp rất oai thì phải lột da làm thảm trải nơi trướng gấm. Xương Hổ tạo nên sự khỏe mạnh thì phải nấu thành cao. Răng Hổ thì phải vặn ra, đem mài từng chút làm thuốc chữa đau bụng. Vuốt Hổ bị bóc ra thành vật trang sức trước ngực những chàng trai muốn bộc lộ tính dũng mãnh của mình. Kể sao hết nỗi tang thương?
Sức mạnh hoang dã là thứ tốt nhất để con người lợi dụng. Thân đã bại thì danh cũng liệt. Hổ chẳng còn uy vũ thiêng liêng gì, “Chúa” nay bị nhốt vào chuồng làm cảnh để thu tiền du khách. Xác Hổ thì bỏ hết ruột gan, nhồi bông bày nơi khảo cổ, cho loài người chiêm ngưỡng như chiêm ngưỡng một loài thú hoang dã. Cái gì xấu thì dành cho Hổ, người ta chửi rủa nhau “Ăn như Hổ đói”, “Đồ Hổ vồ”. Hổ thành biểu tượng cho sức mạnh tàn ác, luật rừng dã man. Ngôn ngữ Việt nam lại có chữ đồng âm “hổ” là hổ thẹn, càng làm mất danh dự cho Chúa sơn lâm. Trong văn chương, hỏi “hổ không biết hổ? ” là chửi bọn người tham tàn vô sỉ. Nếu hiểu tiếng Việt và có thần kinh xấu hổ thì chắc Hổ phải tủi hổ, chui xuống lỗ nẻ mà chết. (Nhưng kẻ đã sở hữu bạo lực thì làm gì còn thần kinh xấu hổ?)
Nhưng nỗi bất hạnh nhất của Hổ phải kể đến trò đấu “Hổ quyền”. Cho Hổ đấu với voi, nhưng “Voi được đi lại tự do, còn hổ bị buộc bằng sợi xích cột vào cái cọc đóng chắc chắn ở giữa đấu trường và bị cắt bỏ nanh vuốt, cốt biến Hổ thành vật tế thần cho voi tập luyện” (!). (Đây là kiểu “Trói tay đối thủ rồi thách đấu” – Bùi Tín viết về vụ đấu tố HSP).
Theo bài “Hổ Quyền” trong cuốn Quần thể di tích Huế (NXB Trẻ 2007, trang 293-299), tác giả Phan Thuận An tả cảnh một trận Hổ quyền dưới triều Thành Thái như sau:
“Voi cái bước vào đấu trường có vẻ hiên ngang, đi qua đi lại trước mặt cọp không một chút sợ hãi, vua Thành Thái khen: ‘Con này can đảm lắm’. Nhưng bỗng chốc, cọp nhảy lên trán voi, voi hất mạnh, cọp rơi xuống. Cọp lại nhảy lên bấu vào chỗ cũ. Voi tức giận, rống lên, vụt chạy đến dùng đầu đẩy mạnh cọp vào thành đấu trường, dùng sức mạnh ngàn cân vừa húc, vừa ép thật sát. Khi voi ngẩng đầu lên, cọp té xuống đất, voi dùng chân chà cọp đến chết…
Trận Hổ quyền đẫm máu nhất là vào năm 1750, ở cồn Dã Viên trên sông Hương, lần lượt 40 con voi đã giết chết 18 con Hổ một cách khủng khiếp tương tự như thế. Âu cũng là “sinh ư nghệ tử ư nghệ”, không cậy mình có sức mạnh vô địch làm Chúa Sơn lâm, mặc sức chén thịt hươu nai, trâu bò thì Hổ đâu có “vinh dự” được chọn làm vật tế thần để bị đẩy vào cảnh thê lương như vậy? Thật rõ oan oan tương báo.
***
Ba mươi Tết NHÂM DẦN này, theo phong tục, TRÂU phải bàn giao quyền cho HỔ, HỔ tiếp quản quyền bính chi phối thế gian. Ôi chao, ta cứ lo một khi con mãnh thú – ác thú này mà tung hoành thì độc tài chuyên chính lắm đây? Lòng ta không khỏi bồi hồi, nghĩ về con HỔ, để vừa ca ngợi, vừa sợ, vừa ghét, vừa thương. Trời sinh cái kiếp CỌP sao đa đoan, lúc vinh là thế mà lúc nhục là thế! Nghĩ lan man về cái thế giới của Chúa sơn lâm rồi tôi ngủ thiếp đi…
Thế rồi…
Quả nhiên, loài Hổ họp nhau lại, bàn cách cử đại diện nắm quyền chi phối thế gian. Con Hổ lớn nhất gầm một tiếng rồi mở miệng nói một tràng (tôi nghe rõ Hổ nói tiếng Việt)… “Loài Hổ chúng ta là mãnh thú ác độc không ai yêu mến. Rút kinh nghiệm nhiều kẻ cầm quyền gian ác trên thế gian thường giở trò xiếc để lừa mị dân, nay ta nên học bài học ấy, hãy cử một bạn Hổ trong rạp xiếc ra làm đại diện, cứ mỗi lần bạn ấy xuất hiện trên sân khấu là lập tức được vỗ tay chào đón hân hoan…”. Cả hội trường Hổ đồng loạt đứng phắt dậy, đứng bằng hai chân sau, dùng hai chân trước vỗ từng nhịp hoan hô và gầm rú ầm ĩ tán thành…
Thế rồi…
Phút giao thừa, tại lễ bàn giao, chú Trâu thì lo sợ khiếp vía, cứ nép mình trong xó. Chẳng ngờ chú Hổ quen làm xiếc nhe cả hàm răng cười rất tươi mà rằng:
“Này bạn Trâu ơi đừng sợ, ta biết mi vốn dòng Công Nông hiền lành ngoan ngoãn, tuy không thể so sánh với những nông dân tài giỏi hiện đại như như gia đình bà nông dân tuyệt vời Cấn Thị Thêu, nhưng không phải bọn giả danh khoác áo búa liềm Công Nông mà thực tế đã thành Tư bản hoang dã. Nay ta vâng lệnh đất trời chi phối thế gian làm một cuộc cách mạng, chỉ lấy thiện tâm làm chuẩn, dung hòa mọi lợi quyền chân chính để xây dựng một thế giới hạnh phúc an hòa…Ta chịu ơn loài người nuôi nấng và quen nghề xiếc nhưng xiếc này chẳng để lừa ai, chỉ dùng sức mạnh tự thân băng qua vòng lửa cho vui, để khi cần có thể băng mình cứu người trong cơn hỏa hoạn…”.
Thế rồi, tự dưng lửa cháy đùng đùng, rền tiếng kêu la. Từ trong vùng lửa một con Hổ vọt băng qua, trên lưng cõng một cụ già râu đã cháy xém…Tôi bừng tỉnh dậy, thấy nóng quá, toát cả mồ hôi, nhưng trong lòng thì sảng khoái sau một giấc mơ đẹp. Phải chi cứ được sống trong mơ thế này. Cuộc bàn giao quyền lực giữa HỔ và TRÂU, giữa một động vật ăn thịt với con mồi này sao mà đẹp vậy? Chẳng trách con Hổ xiếc vừa rồi đã gọi đúng tên, đó mới thực là một cuộc… “Cách mạng”, diễn biến ngược với ý đồ láu cá tàn ác của đàn Hổ lúc ban đầu! Vậy xin ghi lại để chào đón mùa xuân Nhâm Dần.
II. MẤY CÂU ĐỐI TẾT NHÂM DẦN
Câu đối 1: Tiễn Trâu lại đón Hổ
– Tiễn bác TRÂU chớ “gẩy đàn cầm”, bác là loại có Sừng có Sỏ!
– Đón anh HỔ đừng “ngay ruột ngựa”, anh vốn loài dùng Vuốt dùng Nanh!
(Thành ngữ “thẳng như ruột ngựa” chỉ sự thẳng thắn bộc trực không chút nghi ngờ)
Câu đối 2: Quan hệ Trâu và Cọp
– TRÂU quen lề phải… vô chuồng CỌP!
– CỌP cứ luật rừng… chén thịt TRÂU!
(Điều phi lý trớ trêu là khi trên vai bị mang một “cái ách” phi nhân tính thì những công dân thông minh, trong sáng như Phạm Thành, Phạm Đoan Trang, mẹ con bà Cấn Thị Thêu ..vv…lại phải chịu số phận như thân Trâu ngựa thật sự. Người ở phận TRÂU thỉ dù đi đúng “lề phải” của Công lý vẫn cứ bị tống vào “chuồng cọp” cho Cọp nó xơi đấy thôi?).
Câu đối 3: Gợi ý năm Hổ Báo-Hùm Beo
– Giỡn mặt HỔ, mình ra tờ nhật BÁO!
– Vuốt râu HÙM, ta tạo tấm da BEO!
(Tấm da báo, da beo là tình trạng lốm đốm xen kẽ giữa các vùng khác nhau, như buổi giao thời giữa chuyên chính và dân chủ)
Câu đối 4: Chơi chữ năm Hổ
– TRÂU đã đi rồi, miếng nhục thịt BÒ còn thẹn mặt!
– HỔ đang tới đó, phong bì da BÁO vẫn trao tay!
(Miếng nhục thịt bò: Nhục 肉 chính là thịt. Phong bì da báo: Bì 皮 chính là da. Thành ngữ “Phong bì” thời nay là chỉ sự đút lót phổ biến khắp trong một xã hội luôn nói đạo đức liêm chính nhưng làm việc gì cũng phải đút lót từ vài chục đồng đến vài chục tỷ).
Câu đối 5: Lỗ mũi và Thiên đường, những nguồn lợi để kiếm chác:
– Cô-vít hóa vận may,tài nguyên lớn là trò khoan… lỗ mũi?
– Mác-Lê là diệu kế, lợi quyền to ở ảo ảnh… thiên đường!
(Vụ Test kits Việt Á là toàn hệ thống cùng nhau kiếm chác trên đại họa xương máu nhân dân, nhưng đó chỉ là bộc lộ cái bản chất sẵn có từ buổi sơ khai, xương máu hy sinh để xây dựng Thiên đường CS mà thực chất chỉ là Thiên đường của một ĐCS cầm quyền với chính sách công hữu hóa toàn bộ đất đai. “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”, không ngờ cái lỗ mũi người dân bỗng chốc cũng sinh lợi chẳng kém gì cái ảo ảnh Mác-Lê vĩ đại).
Bằng chứng: Đây là cả một Nhà nước tham nhũng và lừa đảo.
Câu đối 6: Nhân đại họa “Test kits” nghĩ về những con số:
– Văn hóa bốn nghìn năm ngoài miệng, nói lắm…cũng thừa!
– Máu xương chín chục triệu trong kho, ăn hoài…chưa hết!
(Lợi dụng lá cờ yêu nước để tạo ngai vàng VUA TẬP THỂ, như chữ của chủ tích Nguyễn Văn An, cái kho máu xương khổng lồ trong dân họ ăn hoài không hết).
Câu đối 7: Tiếp lời Tiến sĩ Mác-Lê vừa nhận giải thưởng Lê-nin
Mấy năm nay dân Việt khó quên những lời lạc quan tếu đến khôi hài, nghe rồi phải bấm bụng mà cười, những lời của bậc lãnh đạo tối cao, đại loại như: “Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” v.v…
Nhưng đặc biệt câu này “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam”. Mặt trời nào lại như của riêng VN vậy? Xin nghe lời HCM “Bác Hồ khẳng định: Chủ nghĩa Lê-nin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là MẶT TRỜI soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Té ra là vậy, Mặt trời của CSVN là “Mặt trời Lê-nin”. Cho nên kỷ niệm ngày sinh Lê-nin 22/4/2020 ĐCS Nga đã tặng TBT Phú Trọng một giải thưởng mang hình bóng cái “Mặt trời Lê-nin” của VN ấy. Nên xin có Câu đối để tiếp nhời ông Trọng như sau:
– Địa cầu ấy đêm ngày tăm tối, vì lão MẶT TRỜI bị phủ mây đen, thế giới buồn như…vào ngõ cụt!
– Việt quốc này vẫn sáng lung linh, bởi bác LÊ-NIN bừng lên sắc đỏ, quê ta sướng tựa…tới thiên đàng!
Câu đối 8: Giấc mơ ngược Hổ thiện-Ngưu minh
– Đêm ba mươi TRÂU hết ngu đần, để xứng bậc có sừng có sỏ!
– Sáng mồng một HỔ thôi tàn ác, cho hết loài dùng vuốt dùng nanh?
Nhân ngày vui ta muốn tặng TRÂU và HỔ sự Thông minh và Lương thiện, là những tính chất mà loài vật các ngươi vốn không thể có, mà loài người chúng ta cũng chỉ đánh bại được sự TÀN ÁC và NGU ĐẦN một khi sức mạnh của TRÍ TUỆ và TÌNH YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI vô bờ bến được thăng hoa thôi. Thật khó lắm thay!
Vậy xin kính chúc một năm”Nhâm Dần đại phúc”!
III. MỜI ĐỐI: Bạn bè yêu Câu đối có thể chọn bất kỳ vế đối nào trong bài làm vế Xuất đối.
H.S.P. (Tết Nhâm Dần 2022)