Thứ Năm, 25 tháng 11, 2021

20211126. HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC 2021

ĐIỂM BÁO MẠNG  

XÂY DỰNG, GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY

 GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

NGUYỄN PHÚ TRỌNG/ TTXVN/ GDVN 24-11-2021

Sáng 24/11, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng theo hình thức trực tuyến. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tới dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: Đăng Khoa)

Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”:

“Kính thưa các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các vị đại biểu,

Thưa toàn thể các đồng chí,

Hôm nay, tại Thủ đô Hà Nội - "nơi lắng hồn núi sông ngàn năm"; "nơi hội tụ, kết tinh và tỏa sáng nền văn hóa, văn minh của dân tộc"; "Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người"; "Thành phố vì hòa bình"; "hào hoa và thanh lịch"; "văn hiến và anh hùng";... chúng ta long trọng tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa.

Đây là một việc làm rất có ý nghĩa về nhiều phương diện; tôi rất vui mừng và hào hứng được đến dự Hội nghị này. Sở dĩ tôi nói như vậy là vì 3 lý do:

- Vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa: văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn,...

- 75 năm nay (từ ngày 24/11/1946), hôm nay mới lại có Hội nghị toàn quốc về văn hóa với quy mô lớn thế này.  

- Họp sau Đại hội Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận, Khối Nội chính; và sắp tới sẽ còn có Hội nghị về đối ngoại và về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần tôi vẫn nói: "Tiền hô hậu ủng," "Nhất hô bá ứng," "Trên dưới đồng lòng" và "Dọc ngang thông suốt."

Trước hết, tôi xin gửi đến các vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể các đồng chí lời chào thân ái, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.

Thưa các đồng chí,

Chúng ta đều đã biết, văn hóa là một phạm trù rất rộng, có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Đến nay, trên thế giới có tới gần 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa.

Nhưng chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hóa là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng... Văn hóa Đông Sơn, văn hóa lúa nước...). Nghĩa hẹp: thì văn hóa là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...).

Văn hóa cũng bao gồm cả văn hóa vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, di sản văn hóa, những sản phẩm văn hóa: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Văn hóa chúng ta bàn ở đây chủ yếu là theo nghĩa hẹp.

Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân tộc có văn hóa; lối sống văn hóa, nếp sống văn hóa, cách ứng xử có văn hóa,...).

Còn những gì xấu xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi... là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng.

Việt Nam là một đất nước có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích lũy, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc, làm nên hồn cốt của dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền văn hóa chung của nhân loại.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hóa Việt Nam," trong đó chỉ rõ "Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)," và chủ trương phát triển văn hóa theo ba hướng: dân tộc - Khoa học - Đại chúng.

Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945.

Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu "văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa," "xây dựng đời sống mới," văn hóa Việt Nam đã thực sự trở thành động lực tinh thần để huy động tất cả mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu," năm 1954.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cả nước ta đã tập trung vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến công tác văn hóa, động viên và cổ vũ đội ngũ văn nghệ sỹ và những lực lượng làm công tác văn hóa phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã xác định mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về văn hóa và áp dụng những nhận thức đó vào việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, thiết thực, phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đảng ta đã nhấn mạnh đến công tác phát triển nền văn nghệ, báo chí, xuất bản, truyền thanh, điện ảnh, thư viện, bảo tồn bảo tàng, nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng của các công việc đó.

Đồng thời, Đảng ta cũng đã đặc biệt quan tâm đến công tác văn hóa quần chúng, xây dựng các hoạt động và các thiết chế văn hóa ở cơ sở, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hóa mới, cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói quen và lối sống mới.

Sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1975 đã góp phần phát huy vai trò của văn hóa Việt Nam thực hiện nhiệm vụ vừa kiến quốc, vừa kháng chiến, huy động được các binh chủng, các lực lượng làm công tác văn hóa của toàn dân tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành Đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối.

Lời kêu gọi thiết tha, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!"; "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một! Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!" đã trở thành lẽ sống thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam, là hồn cốt thiêng liêng của văn hóa Việt Nam!; "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh!"; thậm chí "Còn cái lai quần cũng đánh!" (chị Út Tịch). Đồng thời: "Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa!"

Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đánh giá rất cao về những đóng góp của Ngành văn hóa, văn học nghệ thuật Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khẳng định: Nền văn hóa, văn nghệ nước ta xứng đáng đứng vào "Vị trí tiên phong của nền văn hóa văn nghệ chống đế quốc, phong kiến trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay."

Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta chẳng những là Lãnh tụ thiên tài, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà còn là Nhà văn hóa kiệt xuất, được thế giới phong tặng danh hiệu vẻ vang "Danh nhân văn hóa thế giới"! (cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và mới hôm qua có thêm: Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương).

Từ năm 1975 đến năm 1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, đất nước ta phải khắc phục hàng loạt những hậu quả của chiến tranh, khôi phục lại các cơ sở kinh tế, văn hóa, giáo dục bị tàn phá; thống nhất về thể chế và thiết chế văn hóa trên phạm vi cả nước.

Đồng bào cả nước đã đồng cam, cộng khổ, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng để vượt qua những thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình hình phức tạp của quốc tế lúc đó gây ra.

Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.

Riêng về lĩnh vực văn hóa, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị rất quan trọng để tập trung xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu đã đạt được về lĩnh vực văn hóa những năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Đây là những nghị quyết có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã chọn 8 lĩnh vực để tập trung chỉ đạo, trong đó quan trọng nhất là vấn đề xây dựng con người với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Tiếp đó là Nghị quyết số 33 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Nghị quyết này, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số vấn đề mới, khẳng định mục tiêu, vai trò, nhiệm vụ của văn hóa.

Về mục tiêu chung, Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hóa phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Đảng ta nhấn mạnh, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; làm rõ đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; nhấn mạnh trọng tâm của việc xây dựng văn hóa là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp…

Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định một số nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường văn hóa. Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Nhắc lại một cách vắn tắt như vậy để muốn khẳng định rằng: Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.

Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: "văn hóa soi đường cho quốc dân đi"! Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã chính thức được (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong ảnh: Đồng thầy Nguyễn Đức Hiển trình diễn giá hầu Quan Hoàng Mười. (Ảnh: Trương Văn Vị)

Đồng thời, Đảng ta khẳng định: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta cũng đã xác định, chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ đóng vai trò quan trọng; nhấn mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hóa.

Như vậy, nhận thức của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề rất cơ bản để chúng ta quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế.

Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,

Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới gần đây, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hóa vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội.

Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung.

Nhân dịp này, tôi xin được thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiệt liệt hoan nghênh, chúc mừng, biểu dương và cảm ơn những đóng góp to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn thể cán bộ, đảng viên và đặc biệt là của đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, của các lực lượng tham gia trên mặt trận văn hóa trong thời gian vừa qua.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các đại biểu dự Hội nghị. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hóa, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục.

Hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.

Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hóa chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền còn lớn.

Đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hóa quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao…

Chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Công tác giới thiệu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài chưa mạnh; tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại còn hạn chế; chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là "vô văn hóa", "phản văn hóa").

Những yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng. Sự yếu kém, khuyết điểm này đã gây hệ luỵ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hóa của chúng ta.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. Đặc biệt là trong công tác lãnh đạo, quản lý, chúng ta chưa nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện về đường lối văn hóa của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

Phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa chậm được đổi mới, chưa thích ứng kịp thời với sự vận động và phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối văn hóa của Đảng còn thiếu đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả. Công tác tổ chức và công tác cán bộ trên lĩnh vực văn hóa còn nhiều bất cập. Trách nhiệm của các cấp ủy đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, của đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển văn hóa chưa cao. Chúng ta cần phân tích sâu sắc các nguyên nhân này để tìm cách khắc phục, nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc chấn hưng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời gian tới.

Thưa các vị đại biểu, thưa các đồng chí,

Với tầm nhìn từ nay cho đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế; niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Mặt khác, những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng văn hóa vừa qua cũng là những rào cản lớn đối với phát triển văn hóa. Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cũng sẽ diễn ra quyết liệt, phức tạp hơn.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số,... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hóa. Đồng thời, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức của an sinh truyền thống, an sinh phi truyền thống, nhất là sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh, trước hết là đối phó, thích ứng và sống cùng đại dịch COVID-19, vừa bảo vệ sức khoẻ nhân dân, vừa phát triển kinh tế-xã hội.

Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền tảng tinh thần," "động lực phát triển," và "soi đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Có thể nói, phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược.

Văn kiện Đại hội đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất."

Ngày 12/3/2021, tại thôn Thiện Cư, xã Thiện Hưng, huyện biên giới Bù Đốp (Bình Phước), Ban chỉ đạo công tác dân tộc - tôn giáo huyện Bù Đốp tổ chức trao tặng bộ cồng chiêng cho thôn Thiện Cư. Đây là hoạt động nhằm phát huy và giữ gìn giá trị, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc S’tiêng, lưu truyền cho các thế hệ trẻ sau không bị lãng quên. (Ảnh: K GỬIH/TTXVN)

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia-dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.

Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.

Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước.

Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, của những người làm công tác văn hóa.

Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.

Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hóa.

Sáu là, xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.

Để chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam theo phương hướng nói trên, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp sau:

Trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ trung ương đến cơ sở.

Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa. Khắc phục tư tưởng "duy kinh tế," chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm đến văn hóa. Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm "văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội."

Đại hội XIII của Đảng vừa qua đã xác định: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong thời gian tới là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đây là quan điểm chỉ đạo rất cơ bản cần phải được triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt trong nhiệm vụ của các ngành, các cấp.

Đối với công tác quản lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ trung ương đến cơ sở. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hóa. Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.

Thứ hai là xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hóa, ở cả trung ương và địa phương.

Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc." Công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa không chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, am hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, có tầm nhìn sâu rộng, có khả năng vận động và thuyết phục các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sỹ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hóa nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung.

Bác Hồ đã từng căn dặn: "Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sỹ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, trang 647). Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sỹ và những người làm công tác văn hóa. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà.

Bên cạnh việc tập trung nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở, cần phải chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay.

Thứ ba là quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới.

Hiện nay, cả nước ta có tới 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng quốc gia với hơn 3 triệu hiện vật; 3.486 tổng di tích được xếp hạng quốc gia, trong đó có 1.626 di tích lịch sử; 105 di tích quốc gia đặc biệt; 288 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (riêng Hà Nội có 21 lễ hội); 27 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là "di sản văn hóa thế giới" (riêng tỉnh Bắc Ninh đã có 2 di sản văn hóa thế giới là Dân ca quan họ và Ca trù)... Đó là một tài sản vô cùng quý báu do tổ tiên, cha ông ta mấy nghìn năm để lại, không phải nơi nào cũng có được; chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy. Nếu không là chúng ta có tội với lịch sử, là vong ân bội nghĩa với tổ tiên, cha ông chúng ta. Bác Hồ trước lúc đi xa vẫn còn dặn lại rằng: "Muốn yêu Tổ quốc mình thì phải yêu những khúc hát dân ca!" (Nhạc sỹ Trần Hoàn với bài hát rất xúc động "Lời Bác dặn trước lúc đi xa," "Giữa Mạc Tư Khoa tôi nghe câu hò ví dặm").

Thứ tư là chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội ("Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng"; "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"; "Thương người như thể thương thân"; "Lá lành đùm lá rách"; "Lá rách ít đùm lá rách nhiều"; "Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ"; "Kính lão đắc thọ"; "Kính già, già để tuổi cho"; "Anh em như thể chân tay"; "Kính trên nhường dưới"; "Vợ ta đói rách ta thương, vợ người áo gấm xông hương mặc người"; "Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn; Thuận bè thuận bạn tát cạn biển Đông"; "Đói cho sạch, rách cho thơm"; "Thật thà là cha quỷ quái"; "Tôn sư trọng đạo"; "Lời chào cao hơn mâm cỗ"; "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng"; giữ lấy "nếp nhà", giữ lấy "Chân quê" (bài thơ của Nguyễn Bính năm 1936); giữ lấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt (bài thơ "Việt Bắc" của nhà thơ Tố Hữu năm 1954)... Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sỹ…

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân," nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hóa, các cơ quan làm công tác văn hóa. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII và đặc biệt là các Kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.

Thưa các vị đại biểu và các đồng chí,

Hội nghị văn hóa toàn quốc của chúng ta hôm nay là một dịp quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là những người làm công tác văn hóa, đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ của cả nước, quán triệt sâu sắc, toàn diện và đồng bộ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về việc xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Chúng ta cùng nhau nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn và toàn diện hơn về vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như trong việc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xứng tầm với sự nghiệp đổi mới và truyền thống lịch sử vẻ vang ngàn năm văn hiến của dân tộc.

Tôi tha thiết mong rằng, sau Hội nghị này, công tác văn hóa của chúng ta sẽ có bước chuyển biến, tiến bộ mới, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả cao hơn nữa, ghi một dấu mốc mới trên con đường chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Tôi tin rằng, với một Đất nước, một dân tộc trọng văn hiến, trọng hiền tài, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng; Nhân dân đoàn kết, cần cù, sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ tâm huyết, tài năng, có trách nhiệm cao với Nhân dân, với Đảng, với Tổ quốc và tương lai của dân tộc; cùng với sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, nhất định chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức để chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang thêm cho dân tộc, cho giống nòi, tạo thành sức mạnh vô song để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, đất nước ta ngày càng phồn vinh, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến và anh hùng của một dân tộc anh hùng, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Và chỉ có như vậy thì chúng ta mới có thể nói rằng Hội nghị của chúng ta hôm nay có ý nghĩa thiết thực và thành công tốt đẹp về thực chất.

Xin chúc các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các quý vị đại biểu, các đồng chí và toàn thể đồng bào ta sức khoẻ, hạnh phúc và thắng lợi.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!”./.

Theo TTXVN
ÔNG PHẠM QUANG NGHỊ: 
VĂN HÓA ĐƯỢC COI TRỌNG HƠN, YẾU KÉM SẼ ÍT ĐI
HƯƠNG QUỲNH th/vnn 22-11-2021

Bày tỏ sự trăn trở vì sao đạo đức xã hội sa sút, tội phạm xã hội nhiều, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị cho rằng, nếu lĩnh vực văn hóa được chú ý, coi trọng hơn thì những yếu kém sẽ ít đi.

Trước ngày diễn ra Hội nghị Văn hóa toàn quốc, VietNamNet có cuộc trao đổi với nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Phạm Quang Nghị.

Sau 35 năm đổi mới, ông có thể cho biết những thành tựu đạt được cũng như khó khăn, hạn chế của lĩnh vực văn hóa?

Để đưa ra một đánh giá tổng quát hay liệt kê những thành tựu, những yếu kém của lĩnh vực văn hóa là việc khó. Nhưng xét một cách tổng thể, bao quát, đó là sự đan xen giữa thành tích và yếu kém, giữa được và mất.

Ông Phạm Quang Nghị: Văn hóa được coi trọng hơn, yếu kém sẽ ít đi
Nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Phạm Quang Nghị. Ảnh: Trần Thường

Qua 35 năm đổi mới, đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đương nhiên trong đó có đóng góp, có kết quả của văn hóa. Kinh tế phát triển đi lên, văn hóa cũng được quan tâm đầu tư nhiều hơn, đời sống tinh thần của người dân cũng được cải thiện; mức độ và chất lượng hưởng thụ văn hóa của người dân cũng hơn trước.

Nhưng so một cách tương đối, cảm nhận chung của mọi người đều cho rằng, giữa thành tựu kinh tế và thành tựu trên lĩnh vực văn hóa còn có khoảng cách. Văn hóa vẫn bị bỏ lại phía sau, bị coi nhẹ trong nhận thức và trong những việc làm cụ thể.

Việc phát triển văn hóa được đánh giá chưa ngang tầm với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội…, theo ông đâu là nguyên nhân?

Trong tự nhiên hay trong xã hội, không có gì là bỗng dưng mà có. Có gieo trồng mới mong gặt hái. Có chăm sóc tốt mới hy vọng được mùa. Nhân nào thì quả ấy.

Việc phát triển văn hóa chưa ngang tầm phát triển kinh tế, chung quy có 2 nguyên nhân lớn, cơ bản. Một là về nhận thức, không phải chủ yếu về phía người dân, mà là từ phía lãnh đạo, chưa coi trọng đúng mức vị trí, vai trò, tầm quan trọng của yếu tố văn hóa đối với sự phát triển bền vững của xã hội.

Có vô số dẫn chứng, từ mức đầu tư kinh phí, ngân sách quốc gia và các nguồn lực khác cho văn hóa luôn không tương xứng với vị trí, vai trò của văn hóa (chưa bao giờ được 2% ), không bằng lĩnh vực khoa học công nghệ; thấp hơn giáo dục, y tế rất nhiều.

Nguyên nhân thứ 2 cũng từ nhận thức ấy, dẫn tới hành động, chỉ đạo, điều hành. Các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở, hầu hết các nhà lãnh đạo, quản lý khi phải lựa chọn các dự án, giữa lĩnh vực kinh tế và văn hóa, đa số đều ưu tiên chọn dự án kinh tế. Vì thấy nó sinh lời, đem lại nguồn thu, tăng trưởng… Còn dự án dành cho phát triển văn hóa, nhiều người không nhìn thấy những cái được cơ bản, lâu dài và bền vững mà nó mang lại: đạo đức, tâm hồn, lối sống, lòng yêu nước, thương người… mà luôn nghĩ đó là dự án tiêu tốn ngân sách. Tôi đã từng làm việc với các cơ quan cấp phát kinh phí, ngân sách nên tôi hiểu được điều đó.

Qua 35 năm đổi mới, đất nước chúng ta luôn tự hào - mà tự hào chính đáng, đã xây dựng, khánh thành hàng nghìn công trình lớn nhỏ, đường cao tốc, sân bay, khu  đô thị, trung tâm thương mại hiện đại… Nhưng TP.HCM lớn bậc nhất đất nước, đề xuất làm một nhà hát; hay ngành văn hóa đề nghị xây bảo tàng lịch sử quốc gia, như mọi người đã biết, thảo luận, nghiên cứu qua mấy chục năm luôn vấp phải bao nhiêu là sự cản trở, phản đối, khiến cho những dự án văn hóa ấy cho đến hôm nay không thể triển khai được. Không ít dự án trên lĩnh vực kinh tế đã gây thua lỗ, lãng phí, thất thoát hàng trăm nghìn tỷ, nhà nước vẫn phải gánh chịu. Nhưng những dự án trong lĩnh vực văn hóa quy mô đầu tư nhỏ bé hơn nhiều nhưng lại không bố trí được vốn... Ấy là chưa nói đến những bất cập về chế độ, chính sách đãi ngộ, thù lao đối với đội ngũ những người lao động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật.

Cũng cần nói thêm, xu hướng chung của xã hội, cũng như từng con người đều luôn thiên về lợi ích, nhất là những lợi ích có thể cầm, nắm, đếm, tính được. Chỉ những ai tự giác, hiểu rõ được sự cần thiết, những yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển bền vững cho đất nước, cho xã hội chứ không phải cho riêng cá nhân mình, ngành, lĩnh vực mình mới thực sự quan tâm đúng mức đến văn hóa.

Khắc phục căn bệnh chuộng hình thức, chỉ chú trọng bề nổi

Nếu văn hóa không được đặt đúng vị thế, có thể gây ra những hệ lụy gì, thưa ông?

Đây là câu hỏi dường như đã có sẵn câu trả lời. Đó là thực tế đang diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội chúng ta, là sự mất cân đối giữa phát triển kinh tế và văn hóa. Thành tựu trên lĩnh vực kinh tế nhiều hơn, nổi bật hơn lĩnh vực văn hóa.

Ông Phạm Quang Nghị: Văn hóa được coi trọng hơn, yếu kém sẽ ít đi
Một tiết mục nghệ thuật tại lễ khai mạc "Tuần Đại đoàn kết các dân tộc – Di sản văn hoá Việt Nam năm 2021". Ảnh: Khiếu Minh

Đất nước chúng ta được thế giới ca ngợi về tiềm năng, tốc độ phát triển (kinh tế) vào tốp cao nhất thế giới. Đó là thực tế không cần phải nhiều lời chứng minh. Nhưng chúng ta cũng nên nghiêm túc tự đánh giá, tự nhìn nhận hình ảnh đất nước, con người Việt Nam xét về phương diện văn hóa, đạo đức, tinh thần… liệu chúng ta có thể ngẩng cao đầu tự hào như một thời chưa xa, Việt Nam được thế giới ngợi ca là lương tri của thời đại?

Chúng ta đang cảm thấy lo âu, trăn trở, vì sao đạo đức xã hội sa sút, xuống cấp như vậy? Tội phạm xã hội hàng ngày diễn ra nhiều như vậy? Những khuyết điểm ấy do đâu? Tất cả những điều đó không phải nguyên nhân duy nhất từ văn hóa, nhưng nếu lĩnh vực văn hóa được chú ý, coi trọng hơn, nhất định những yếu kém sẽ ít đi.

Thời điểm này, văn hóa, đạo đức xã hội bị đánh giá là xuống cấp? Theo ông, vì sao văn hóa bị nhiều người xem nhẹ, cho là hoạt động bề nổi “cờ, đèn, kèn, trống”?

Khi trả lời những câu hỏi bên trên, đã có những nội dung liên quan đến câu hỏi này.

Vì sao văn hóa bị nhiều người xem nhẹ? (cười). Vì văn hóa không được nhiều người coi trọng, nhất là những ai đó, xét trên phương diện lãnh đạo, quản lý vĩ mô, hay trên phương diện lợi ích, như tôi vừa nói, không nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng của văn hóa trong đời sống xã hội. Đôi khi họ đã bị những lợi ích vật chất thôi thúc, cám dỗ, muốn có ngay những thứ ăn được, đếm, tính được.

Những người coi văn hóa chỉ là những hoạt động bề nổi “cờ, đèn, kèn, trống” một phần cũng do trình độ nhận thức, nhưng cũng còn một lý do khác mà về phương diện lãnh đạo, quản lý cần phải nghiêm túc tự vấn, tự sửa chữa, khắc phục từ bên trên. Đó là căn bệnh chuộng hình thức, chỉ chú trọng bề nổi; thích họp hành, lễ hội, mít tinh, kỷ niệm…tràn lan. Nhiều người cũng thích được đăng ảnh to trên báo, cũng thích được tặng hoa, thích có cờ, có trống, tụ tập đông người đón rước… Tự mình làm cho việc “cờ, đèn, kèn, trống” trở nên quan trọng hơn là phải quan tâm chú ý đến những vấn đề thiết thực về nội dung. Những biểu hiện như vậy tự nó làm xấu đi ý nghĩa của văn hóa.

Xây dựng văn hóa rất cần sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo

Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Ông nghĩ thế nào về nội dung này?

Trong những bài viết gần đây của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân 90 năm thành lập Đảng, 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh… cũng như trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều nói rất đúng, rất trúng, rất sâu sắc về vấn đề văn hóa, vấn đề con người. Nếu cần phải trích, phải nhắc lại thì không ai không tán thành và mong muốn phải làm được như thế: “…phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ xã hội ngay trong từng bước đi…”; “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển và xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội…”.

Ông Phạm Quang Nghị: Văn hóa được coi trọng hơn, yếu kém sẽ ít đi
Hát Xoan ở Đình Trung (Phú Thọ). Ảnh: Lê Anh Dũng

Đấy là những điều đã được ghi trong Nghị quyết Đại hội, Nghị quyết chuyên đề về văn hóa, trong các bài nói, bài viết của Tổng Bí thư, nhưng trong nhận thức và tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành, thật đáng tiếc, hãy còn khoảng cách khá xa.

Khi làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, tại kỳ họp tháng 11/2002, tôi đã có bài phát biểu khá “lâm li” trước Quốc hội, nói về mức đầu tư cho văn hóa quá thấp, rất không tương xứng với vị trí, vai trò và trách nhiệm của ngành. Sau khi phát biểu, Quốc hội đồng ý điều chỉnh tỷ lệ phân bổ ngân sách cho ngành văn hóa - thông tin từ 1% tăng dần qua các năm lên 1,4%, rồi 1,6%. Khi làm việc với Bộ Tài chính về vấn đề này, đồng chí Bộ trưởng phải thừa nhận “Mức đầu tư ngân sách cho lĩnh vực văn hóa -thông tin của nước ta (một năm) không bằng tiền chuyển nhượng một cầu thủ bóng đá ở Châu Âu”. Đó là một sự so sánh hết sức ấn tượng và hoàn toàn chính xác.

Trong các Văn kiện chính thức của Đảng, phát biểu của các đồng chí lãnh đạo cũng luôn nhấn mạnh: Phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Điều đó hoàn toàn đúng cả về lý luận và thực tiễn. Đất nước và nhân dân cũng rất mong đợi phải làm được như thế.

Con người và văn hóa là không thể tách rời nhau. Chỉ có con người mới suy nghĩ, thực hành, giao tiếp, ứng xử  theo quy ước, chuẩn mực, thói quen văn hóa. Văn hóa là mục tiêu phấn đấu, hoàn thiện con người. Con người là chủ thể xây dựng, phát triển văn hóa. Để đánh giá từng con người hay cộng đồng người, hơn, kém, cao thấp theo các thước đo giá trị, thì bao giờ tiêu chí văn hóa cũng được đặt lên hàng đầu. Mọi người khó nhận biết ai đó hàng ngày ăn, ở tiện nghi cao sang đến đâu, nhưng rất dễ nhận biết văn hóa của người đó như thế nào.

Xét rộng ra, với một cộng đồng, một quốc gia, dân tộc cũng vậy, văn hóa là một thứ căn cước mang theo những giá trị và bản sắc riêng, dễ dàng nhận biết.

Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, theo ông thời gian tới chúng ta cần phải làm gì?

Tôi không thể trả lời hay hơn, đúng hơn những gì Bác Hồ đã nói, Nghị quyết đã viết, lãnh đạo đang chỉ đạo.

Chúng ta đã có những chủ trương đúng, có rất nhiều bài học tốt trong quá khứ. Đất nước ta có truyền thống văn hóa tốt đẹp hết sức đáng tự hào, lại sống trong một thế giới giao lưu rộng mở. Chúng ta có một nhân dân giàu lòng yêu nước, sáng tạo và thông minh. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu văn hóa và có truyền thống văn hóa “Bầu ơi thương lấy bí cùng”; “Thương người như thể thương thân”...

Có nhiều điều nhân dân trông thấy rõ. Đảng cũng đã nhìn thấy và đang quyết tâm chỉ đạo. Như lúc này, để khắc phục n hững yếu kém, rất cần sự nêu gương của lãnh đạo, của cán bộ, đảng viên. Nêu gương trong tư duy đổi mới, sáng tạo; trong nói và làm; trong rèn luyện, phấn đấu. "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đấy là câu khẩu hiệu đầy chất văn hóa, mãi mãi đúng và cần được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày. Đấy là khẩu hiệu thống nhất giữa chính trị và văn hóa; giữa nói và làm. Đấy cũng là ý Đảng, lòng dân.

Hương Quỳnh(thực hiện)

VĂN HÓA Ư ?

ĐOÀN BẢO CHÂU/ TD 25-11-2021

Nhân đang có hội nghị và các vị lãnh đạo cấp cao nhất nói nhiều về văn hoá nên tôi cũng muốn góp mấy câu. Văn hoá là một khái niệm bao trùm kiến thức, truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, ngôn ngữ, cách ứng xử, thói quen của một người, một nhóm người hay của một đất nước.

Tôi thấy cách các vị bàn về văn hoá cũng giống như việc xác định vào năm 2045 Việt Nam sẽ hoàn thiện lý luận về CNXH vậy. Tức là nó không có giá trị thực tiễn với đất nước và người dân.

Muốn tạo ra được giá trị thực tiễn thì cần có một cái nhìn thẳng thắn trước mọi góc độ của chủ đề nêu ra. Tránh hô khẩu hiệu và không cần nhắc lại những định nghĩa và phương hướng quá xa của văn hoá.

Cái nhìn thẳng thắn là cần thiết để biết ta đang ở đâu và muốn biết ta ở đâu thì cần so sánh với mặt bằng nhân loại.

Tại sao một đất nước được gọi là văn hiến, với mấy nghìn năm lịch sử mà những đóng góp về khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật với văn hoá chung của nhân loại lại mờ nhạt đến vậy?

Có vị nhạc sỹ thì rên rỉ về việc thế hệ trẻ yêu nhạc Hàn, phim Hàn, phim Trung Quốc, truyện tranh Nhật và chẳng để ý tới phim, truyện, âm nhạc hay văn hoá truyền thống của Việt Nam. Sự rên rỉ ấy chẳng đóng góp gì cho đất nước cả.

Tôi thấy mấy nét văn hoá đang thịnh hành ở Việt Nam để các vị tham khảo:

1. Văn hoá “mộng mơ” phi lý. Việt Nam chưa bao giờ mạnh về triết học, về lý luận chủ nghĩa này nọ. Vậy tại sao các vị khẳng định dám khẳng định sẽ hoàn thiện lý luận về CNXH vào năm 2045 khi mà đa phần cả thế giới đều cho rằng CNXH hay CNCS chỉ là một giấc mơ thiếu cơ sở khoa học, đẹp về lý thuyết nhưng thực hành rất dở. Điều gì tạo ra sự khác biệt giữa Đông Đức và Tây Đức, Bắc và Nam Triều Tiên? Điều gì tạo ra một Cu Ba khốn khổ trong hiện tại?

Tôi đề nghị hãy xây dựng một văn hoá nói thẳng, nói thật, văn hoá “tỉnh giấc” trước những mây mù lý luận.

2. Văn hoá phong bì: Cái thói quen này cũng là một nét văn hoá. Một văn hoá tha hoá người đưa và người nhận phong bì. Nó làm cả kẻ đưa và kẻ nhận đều thấy mình sai, hèn kém trong thang bậc làm người. Đấy là một sự dối trá lẩn sau lưng pháp luật.

3. Văn hoá chửi, văn hoá đấu tố. Các vị còn xây dựng cả một đội quân chửi trên mạng gọi là đội quân ‘Dư luận viên’ với kĩ năng duy nhất, “lý luận” duy nhất là mấy câu chửi bậy, gọi cả những người bằng tuổi cha mẹ ông bà của chúng là thằng là con, gọi người ta là 3 que, đu càng, phản động…

4. Văn hoá ngậm miệng trước bất công, trước kẻ có quyền lực: Ngay trong ngành giáo dục, một ngành đáng nhẽ phải động viên học sinh tư duy phản biện, một xu hướng mà các nền giáo dục tiên tiến hướng theo. Chỉ với tư duy phản biện thì người học mới động não, phát huy sáng tạo và mới phát triển được mạnh mẽ. Ấy vậy mà đa phần các thày cô giáo chỉ biết làm theo một cách ngoan ngoãn, máy móc những chỉ thị của cấp trên. Cấp trên bảo vào report mấy FB được cho là “phản động” là report, không cần tìm hiểu những người ấy là ai, họ viết gì.

Khi giáo viên như vậy thì học sinh đương nhiên sẽ trở thành những công dân “ngoan ngoãn”, lãnh đạo nói gì biết nấy, sẽ biết cúi lưng vâng dạ làm bất cứ mệnh lệnh gì, kể cả sai trái. Điều ấy tưởng là ai khi nó tạo ra một sự “ổn định” xã hội nhưng về lâu dài nó làm yếu đi nhiều sức mạnh của dân tộc. Rồi đây khi ngoại bang xâm lăng, đứng trước toà quốc tế để tranh biện về một tranh chấp nào đấy thì lấy đâu ra nhân tài để bảo vệ quyền lợi đất nước được thành công?

Muốn một nền giáo dục văn minh, một văn hoá mạnh mẽ thì tư duy phản biện là then chốt, là điều cốt tử không thể thiếu. Điều ấy đa phần những người trong hệ thống ì trệ, rập khuôn máy móc không nhìn ra được.

Đừng nhìn vào mấy con đường cao tốc, mấy toà nhà cao tầng rồi ngửa mặt lên tự hào. Hãy so sánh với Trung Quốc để thấy đất nước ta tụt hậu đến đâu. Chúng ta bị xâm lăng văn hoá từ Hàn, từ Nhật, Trung Quốc, từ Mỹ chính là bởi văn hoá chúng ta đang quá yếu ớt mà yếu ớt là bởi quan niệm cổ hủ, bảo thủ lấy mệnh lệnh chính trị để tạo khuôn mẫu cho văn hoá. Thứ văn hoá chịu mệnh lệnh chính trị là thứ văn hoá cớm nắng, thiếu chất và giả tạo. Nó bị xâm lăng, bị bắt nạt là điều đương nhiên.

Đã chịu lép vế về văn hoá thì sẽ phải chịu những kém cạnh khác, bởi văn hoá là sức sống nội tại của mỗi đất nước, nó có tác dụng thúc đẩy những mặt khác phát triển. Hãy nhìn xem, chưa bao giờ trong lịch sử mà tương quan sức mạnh giữa ta với Trung Quốc lại chênh lệch đến vậy. Nhìn lại lịch sử để thấy ông cha ta mạnh mẽ ra sao. Chẳng cần nói thêm về điều này.

Bao hội nghị được tổ chức cũng sẽ rơi vào quên lãng nhạt nhoà nếu không làm được một bước đơn giản đầu tiên là có được văn hoá nói thẳng, nói thật. Tôi chỉ là một người dân ít học nhưng coi trọng việc suy nghĩ thật mà có được vài nhận thức khiêm tốn, các vị lãnh đạo học cao, quyền cao chức trọng sao không nhìn thấy những điều cơ bản ấy?

Đoàn Bảo Châu

BẠO LỰC PHÁT SINH TRONG XÃ HỘI
LÀ DO LUẬT PHÁP LỎNG LẺO, HAY LÀ DO VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ?
TRƯƠNG NHÂN TUẤN/TD 19-11-2021
Hầu hết các chuyện cổ tích Việt Nam lưu truyền trong dân gian, kể cả chuyện Tấm Cám, điểm chính vẫn là kẻ ác bị trừng phạt và kẻ hiền gặp lành. Không có văn hóa nào chủ trương bạo lực mà chỉ có những kẻ lợi dụng những điểm đặc thù của văn hóa để mưu đồ chính trị.
Điều gây sốc (trong chuyện Tấm Cám) là cảnh cô Tấm (mặc dầu đã lấy được vua) vẫn trả thù mẹ con cô Cám bằng cách chặt xác cô Cám thành nhiều khúc rồi đem làm mắm. Hũ mắm được gởi về cho mẹ cô Cám ăn. Đây là một “kịch bản” cực kỳ tàn nhẫn và vô luân. Điều may mắn là chuyện trong cổ tích này chưa hề thấy được ngoài đời, trong suốt lịch sử của VN.
Trong thời kỳ đất nước phân chia, một bên sống dưới chế độ cộng sản khắc nghiệt, một bên dưới chế độ dân chủ tự do. Ta chưa bao giờ nghe một câu chuyện tương tự về sự ác độc đã xảy ra trong xã hội. Bởi vì, dầu buông lỏng đến mức nào, hay dầu khe khắc đến mức nào, hai miền Bắc Nam vẫn có (mỗi bên) một hệ thống luật lệ chặt chẽ để bảo vệ mối giềng luân lý và trật tự xã hội.
Đảng cộng sản nào cũng vô luân. Đảng CSVN không ngoại lệ. Họ chủ trương những gì “có lợi cho cách mạng” là “đạo đức”. Kỷ cương đạo đức, luân lý của giống nòi bị chà đạp, khinh miệt. Đời sống đảo lộn. Con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố cáo lẫn nhau. Hàng xóm, bạn bè đối xử với nhau không thật lòng, nếu không nói là việc đối xử với nhau được đặt trên nền tảng ngờ vực và dối trá. Các thảm cảnh từ cuộc cải cách ruộng đất thập niên 50 của thế kỷ trước ở miền Bắc nói lên một phần của sự vô luân này. Dầu vậy, trong xã hội, luật lệ vẫn duy trì (một cách nghiêm ngặt) để giải quyết những tranh chấp giữa những thành tố trong xã hội. Ta thấy chuyện cô Cám bị “đem làm mắm” là không hề xảy ra. Những chuyện ác độc tương tự cũng không hề có.
Sau năm 1975, trên bình diện cả nước, cũng vậy. Xã hội được (hay bị) đặt dưới một hệ thống luật lệ vô cùng nghiêm khắc. Những gì được cho là “bình thường” ngày trước (ở miền Nam) đều có thể bị ghép thành tội. Kho tàng “văn hóa” miền Nam bị đốt bỏ. Trí thức miền Nam bị truy diệt. Nhưng trong xã hội vẫn không thấy cách đối xử đã xảy ra trong chuyện Tấm Cám.
Nếu xem đó (cô Cám bị đem làm mắm) là “văn hóa” của VN tại sao nó lại chưa bao giờ xảy ra trong xã hội VN?
Chỉ đến khi chủ trương “kinh tế thị trường định hướng XHCN” thành hình thì xã hội mới bắt đầu có những xáo trộn lớn lao.
Tội ác, bạo lực bây giờ hiển hiện ở mọi nơi, mọi lúc ở VN. Nguyên nhân không hề do suy đồi “đạo đức” hay do “văn hóa bạo lực” theo lối chuyện Tấm Cám. Nguyên nhân là do hệ thống luật pháp không hoàn chỉnh.
Người ta không thể áp dụng các điều luật ở thời “chuyên chính vô sản” cho xã hội “kinh tế thị trường”. Thị trường bây giờ là “toàn cầu hóa”. Thị trường có luật lệ riêng của nó, áp dụng cho mọi quốc gia, mọi nền kinh tế. Trong khi các giá trị xã hội của cộng sản chủ nghĩa thì đã lỗi thời.
Ở các chế độ dân chủ tự do, kinh tế thị trường, mọi thành tố trong xã hội đều phải có trách nhiệm như nhau trước pháp luật.
Về quyền lực, ở các nơi đây nguồn gốc của quyền lực quốc gia là tụ ở dân chúng. Mọi hình thức quyền lực, mọi cách thức sử dụng quyền lực, nếu không đến từ “người dân” thì quyền lực đó không chính đáng. Quyền lực không còn là của riêng của đảng phái hay cá nhân nào.
Trong xã hội cộng sản (hay XHCN), quyền lực tập trung vào đảng CS. Quyền lực này chỉ chính đáng khi đảng này còn phục vụ cho giai cấp mà họ đại diện, tức giai cấp vô sản, công nhân, nông dân… nói chung là tầng lớp lao động nghèo. Khi đảng này phục vụ cho một giai cấp khác, như tầng lớp tư bản nước ngoài, tầng lớp tư bản đỏ… thì nó đã phản bội. Tính chính đáng để lãnh đạo của nó bị mất đi. Đảng CSVN hiện nay đang trong tình trạng như vậy. Tính chính đáng để lãnh đạo của đảng CSVN đã không còn.
Mặt khác, về pháp luật, đảng CSVN lại không chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi chính trị của nó.
Tức là cái gọi là “nhà nước pháp quyền” của VN hiện nay không phải là một nhà nước hiểu theo kiểu Anh, Mỹ “Rule of law” hay kiểu Pháp “Etat de droit”. Trong một nhà nước theo kiểu “Rule of Law” của Mỹ hay “Etat de Droit” của Pháp, trước 1975 ta gọi là “nhà nước Pháp trị” (từ ngữ này cũng được các nước TQ, Đài Loan, Nhật, Đại Hàn… sử dụng). Thì mọi người, mọi tổ chức (có tư cách pháp nhân) đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Anh ngồi xổm trên luật thì làm sao anh có thể “hòa nhập” vào kinh tế thị trường toàn cầu? Bao nhiêu kinh nghiệm thất bại, bị trừng phạt… do kinh tế thị trường, do các định chế quốc tế… đã làm cho gánh nợ của người dân ngày càng nặng. Anh đâu có quịt được?
Và khi quyền lực anh nắm đã không còn chính đáng thì không ai sợ anh nữa. Những người sợ anh là người được anh ban phát quyền lợi (và quyền lực). Người khác thì khinh bỉ và thù ghét anh.
Khi anh (cả đảng phạm tội), không bị luật pháp phân xử. Khi cả hệ thống quyền lực của anh đều tham nhũng, hối lộ… thì không ai coi trọng anh nữa.
Đồng bạc xé toạc tờ giấy thì luật lệ không còn ai tôn trọng. Người ta giải quyết các tranh chấp bằng bạo lực, bằng thế lực, bằng tiền bạc.
Nhà nước như vậy đã từ nhiệm, nếu không nói là đang trên đường phân rã.
Nguyên nhân bạo lực ở xã hội hiện nay là như thế. Là do pháp luật, là do mâu thuẫn về ý thức hệ, là do việc mất tính chính đáng của đảng lãnh đạo.
Đào sâu vào văn hóa để sửa chữa là sai đường. Hãy xem cái gương nước Nhật. Trước Thế chiến II, dân tộc này “khát máu”, hung bạo biết bao nhiêu? Trước đó đất nước này phân chia làm năm, làm bảy do các sứ quân lãnh đạo. Họ xâu xé, chém giết với nhau hàng ngày. Họ có truyền thống hung bạo đó chớ?
Nhưng từ khi có bản “Hiến pháp hòa bình” (do Mỹ áp đặt) vào thập niên 50 (thì phải) thì dân tộc này là một dân tộc hiếu hòa nhất trên thế giới.
Bạo lực hay không là do luật pháp chớ đâu phải do văn hóa?
SỐ PHẬN KHÁC BIỆT CỦA 15 ỦY VIÊN ỦY BAN VĂN HÓA ĐẦU TIÊN
LƯU TRỌNG VĂN/BVN 24-11-2021

Bảy mươi lăm năm trước, vào ngày 24.11.1946 cụ Hồ khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất.

Cụ nói: “Tôi mong chúng ta đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”. Cụ nhấn mạnh: "Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.

Tiếng vỗ tay vang rền, trong đó vỗ nồng nhiệt nhất có lẽ là 15 ủy viên Ủy ban Văn hóa toàn quốc.

Mười lăm ủy viên của ủy ban danh giá này là: Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Hồ Hữu Tường, Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thiệu Lâu, Trương Tửu, Khái Hưng.

Thế Lữ, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Văn Huyên, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình Thi.

Gã cố tình có chữ "và" để chia ra hai nhóm trong ủy ban này.

Nhóm dưới 6 người, mọi người đã biết họ đến cuối đời vẫn gắn bó với thể chế Dân chủ Xã hội và xã hội chủ nghĩa sau này.

Còn nhóm trên, 9 người, diễn biến theo con đường khác, do nền tảng Văn hóa mà họ thấy không còn phù hợp với tầm nhìn Nhân văn của họ.

Hồ Hữu Tường ly khai:

" Tôi trở về con đường dân tộc; tôi cho rằng việc giai cấp vô sản giải phóng nhân loại là một huyền thoại lớn của thế kỷ XIX và tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một huyền thoại lớn của thế kỷ XX".

Năm 1948 ông vào Sài Gòn sinh sống.

Nguyễn Thiệu Lâu

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 làm Vụ trường Vụ Ngoại kiều Bộ Ngoại giao, Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ (Bộ trưởng là Huỳnh Thúc Kháng), một thời gian. Ngày Toàn quốc kháng chiến ông lên Việt Bắc làm Giám đốc Trường Kinh tế Trung ương của Chính phủ kháng chiến. Năm 1950 ông bỏ về Hà Nội rồi Sài Gòn.

Hoàng Xuân Hãn thấy quan niệm văn hóa của mình khác biệt với thực tại của cách mạng, năm 1951 đã bỏ qua Pháp sống.

Nguyễn Hữu Đang bị tù vì bất đồng chính kiến và do tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm.

Trương Tửu bị loại khỏi đời sống văn hóa do cũng có tư tưởng Nhân văn như Nguyễn Hữu Đang.

Nguyễn Mạnh Tường sau khi công khai phản biện của mình "Nhà nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng" đã bị vô hiệu hóa.

Khái Hưng chọn con đường là nhà văn tự do.

Đào Duy Anh không được trọng dụng sau khi đòi tự do dân chủ cho văn nghệ sĩ trên báo Nhân văn.

Bùi Công Trừng bị kỷ luật đảng vì theo đường lối xét lại.

24.11.2021

L.T.V.

(Tựa bài do Thụy My đặt)

Nguồn: https://thuymyrfi.blogspot.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét