Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

20180108. BÀN VỀ 'BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH'

ĐIỂM BÁO MẠNG
CÓ HAY KHÔNG CÁI 'BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH' ?

NGUYỄN VẠN PHÚ/ TBKTSG 8-1-2018

Công nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu là gia công. Ảnh: NGUYỄN NAM
(TBKTSG) - Chúng ta thường nghe các chuyên gia kinh tế nói nhiều về bẫy thu nhập trung bình, rằng không khéo nền kinh tế sẽ rơi vào chỗ mắc kẹt ở một mức thu nhập nào đó, không thoát được đến nỗi ai nấy đều tin có một cái bẫy như thế đang tồn tại, chực chờ. Các phát biểu này thường có ý tốt, cảnh báo các nhà làm chính sách không được chủ quan, không được thỏa mãn với hiện tại và đi kèm là những khuyến nghị hay giải pháp.
Tuy nhiên, tờ The Economist gây ngạc nhiên khi gần đây lại khẳng định không có bằng chứng gì trong thực tế về cái bẫy thu nhập trung bình. Trước đó cũng có nhiều nghiên cứu tựu trung cho rằng làm gì có cái bẫy thu nhập trung bình nào mà cảnh báo!
Khái niệm bẫy thu nhập trung bình ra đời thế nào?
Năm 2004, tạp chí Foreign Affairs đăng bài Toàn cầu hóa thiếu vắng những nước trung bình của GS. Geoffrey Garrett, lúc đó đang dạy tại University of California, Los Angeles. Bài viết cho rằng các nước thu nhập trung bình bị mắc kẹt, một bên không cạnh tranh nổi với các nước giàu có công nghệ vượt trội, bên kia lại cũng thua các nước thu nhập thấp vì giá nhân công thấp. Vì thế trên thị trường kết nối toàn cầu hóa, các nước trung bình này có tốc độ phát triển thua cả nước giàu lẫn nước nghèo.
Để minh họa, bài viết sắp xếp các nền kinh tế theo GDP đầu người vào năm 1980, rồi chia thành ba nhóm: giàu, trung bình và nghèo. Sau đó, tác giả so sánh tốc độ phát triển của các nhóm trong vòng hai thập kỷ và phát hiện các nước trong nhóm trung bình thật sự phát triển chậm hơn so với hai nhóm còn lại. Ba năm sau, Homi Kharas và Indermit Gill thuộc Ngân hàng Thế giới trích dẫn bài này trong cuốn sách của họ rồi chế ra cụm từ “bẫy thu nhập trung bình” - khai sinh một khái niệm được nhiều nhà lãnh đạo các nước, rồi chuyên gia kinh tế, sử dụng trong nhiều tình huống, nghe rất kêu, rất hình tượng.
Được biết đến nhiều nhất là Bộ trưởng Tài chính Trung Quốc Lâu Kế Vĩ, khi tuyên bố vào năm 2015 rằng Trung Quốc có 50% khả năng rơi vào bẫy thu nhập trung bình trong vòng năm đến 10 năm tới. Trong báo cáo Trung Quốc 2030 có một biểu đồ rất ấn tượng, giúp lan tỏa khái niệm bẫy thu nhập trung bình. Nó cho thấy trong 101 nước được xem là có thu nhập trung bình vào năm 1960, chỉ có 13 nước thoát ra thành nước có thu nhập cao vào năm 2008, còn lại đều mắc kẹt trong ngưỡng trung bình suốt 50 năm.
Trước đây người ta nói nhiều về bẫy thu nhập trung bình chỉ vì họ không có công thức gì cụ thể rõ ràng để áp dụng cho các nước có thu nhập trung bình. Vì thế, tờ The Economist kết luận, bẫy thu nhập trung bình thật ra là tình thế tiến thoái lưỡng nan của các nước có thu nhập trung bình.
châu Á và Kwanho Shin trường Korea University cũng có những kết luận tương tự. Họ xem xét các nền kinh tế phát triển nhanh rồi sau đó chững lại (nhanh là với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người trên 3,5% và chững lại là GDP bình quân đầu người tăng chậm hơn trước 2 điểm phần trăm, cả hai tính bình quân trên thời gian bảy năm). Nghiên cứu cho họ thấy việc chững lại này thường xảy ra khi GDP bình quân đầu người đạt mốc 11.000-15.000 đô la Mỹ (tính theo cân bằng sức mua).
Như vậy khái niệm “bẫy thu nhập trung bình” không phải là chuyện giật gân theo kiểu báo chí mà có những nghiên cứu nghiêm túc hậu thuẫn. Thế thì tại sao tờ Economist lại cho rằng cái bẫy này chỉ là một dạng huyền thoại?
Tại sao tờ Economist lại nói khác?
Trước tiên là nói về lập luận các nước có thu nhập trung bình không cạnh tranh nổi với cả hai đầu: hoặc là công nghệ cao hoặc là lương thấp. Tuy nhiên thực tế các nước giàu phải dùng công nghệ cao để bù vào chỗ thua thiệt là chi phí tiền lương cho công nhân quá cao, ngược lại các nước nghèo bị buộc phải nhận đồng lương thấp để bù vào chỗ công nghệ của họ còn lạc hậu. Vậy, tại sao không lập luận các nước trung bình có thể cạnh tranh hơn hẳn cả hai đầu khi kết hợp mức lương vừa phải với công nghệ cũng vừa phải? Lấy ví dụ trường hợp của Việt Nam, hoàn toàn có thể kết hợp mức lương của công nhân còn thấp và đầu tư công nghệ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà trong thực tế đã có những doanh nghiệp như thế, chẳng hạn Samsung lắp ráp điện thoại thông minh hay Intel lắp ráp chip điện tử.
Hơn nữa, làm gì có sự xếp hạng trung bình chung chung vì ngay trong một nước, sự cách biệt giữa các công ty hàng đầu với các công ty làng nhàng là rất lớn. Năng suất của 25% các doanh nghiệp hàng đầu của Mỹ cao gần gấp năm lần 25% các doanh nghiệp tốp dưới; chênh lệch này ở các nước đang phát triển còn cao hơn nhiều lần.
Hãy nói về cách các doanh nghiệp tự vươn lên để tăng năng suất cũng như các nước tìm cách tăng GDP đầu người. Cách thứ nhất là chuyển công nhân từ các lĩnh vực thâm dụng lao động qua các nhà máy có năng suất cao hơn (tức chuyển dịch cơ cấu). Cách thứ hai là đầu tư thêm máy móc cho mỗi công nhân (thâm dụng vốn). Cách thứ ba là khai thác vốn hay nhân công tốt hơn nhờ ứng dụng công nghệ sẵn có (đa dạng công nghệ). Cách cuối cùng, áp dụng những tiến bộ công nghệ mới xuất hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả (cách tân công nghệ).
Nói là bốn cách nhưng thật ra ở các nước, người ta kết hợp các phương cách này cùng lúc vì các nước không chờ đến khi nông dân dư thừa bỏ ruộng đồng ra thành thị thì mới đầu tư máy móc hay công nghệ. Họ cũng không chờ tích lũy vốn đến một mức nào đó mới cải tiến kỹ thuật sản xuất. Nói cách khác, không hề có các giai đoạn phát triển rõ ràng để nói một nước nhảy từ bậc này lên bậc khác, thoát hay mắc kẹt vì trong chính một nước, trình độ phát triển của các doanh nghiệp, các khu vực kinh tế là khác nhau, có doanh nghiệp dẫn đầu, có doanh nghiệp chững lại, không phụ thuộc vào chuyện thu nhập bình quân đầu người đang ở mức trung bình hay không.
Cụ thể hơn, tờ Economist phân tích vào từng nghiên cứu đằng sau khái niệm bẫy thu nhập trung bình. Số liệu thống kê trong nghiên cứu của Eichengreen, Park and Shin cho thấy đúng là tốc độ nhiều nước thu nhập trung bình bị chững lại thật nhưng nếu cũng dùng phương pháp đó để đo lường các nước thu nhập thấp thì sự chững lại này xảy ra cũng thường xuyên không kém. Còn các nước giàu ít khi có tốc độ phát triển cao hơn 3,5% nên làm gì có chuyện chững lại như định nghĩa của nghiên cứu (tốc độ tăng thấp hơn trước đến 2 điểm phần trăm). Việc chững lại cũng không ngăn cản các nền kinh tế sau đó vẫn giàu hẳn lên như Singapore, Hồng Kông, Đài Loan hay Hàn Quốc.
Thế còn biểu đồ trong 101 nước có thu nhập trung bình, chỉ có 13 nước thoát bẫy thì sao? Biểu đồ này định nghĩa một nước có thu nhập trung bình là nước có GDP bình quân đầu nước (tính theo cân bằng sức mua) nằm giữa 5,2% và 42,75% GDP bình quân đầu người của nước Mỹ. Kể từ lúc giới thiệu biểu đồ này vào năm 2012, đã có thêm 18 nước ra khỏi danh sách thu nhập trung bình do tăng trưởng hay do số liệu chính xác hơn.
Quan trọng hơn, biểu đồ này có một sai sót căn bản: định nghĩa thu nhập trung bình như thế thì quá rộng nên không có ý nghĩa. Ví dụ, một nước GDP đầu người chỉ bằng 590 đô la Mỹ (theo giá 1990) lại được xem là có thu nhập trung bình vào năm 1960 trong khi thực tế đây là nước nghèo. Ngược lại một nước có thu nhập GDP bình quân đầu người lên đến 13.300 đô la Mỹ năm 2008 vẫn được xem là nước trung bình dù nó cao hơn trường hợp “trung bình” ở trên đến 22 lần. Chẳng lạ gì nhiều nước bị mắc kẹt trong khoảng định nghĩa mênh mang này.
Riêng công trình nghiên cứu của GS. Garrett, dẫn tới khái niệm bẫy thu nhập trung bình, thì sao? Nếu không chia ba nhóm nước theo tỷ lệ 25%-45%-30% khá khiên cưỡng như Garrett mà chia đều các nhóm, cộng với dữ liệu tốt hơn cho cùng 20 năm đó (1980-2000), người ta thấy cách biệt về tốc độ tăng trưởng giữa các nhóm không còn nữa! Quan trọng hơn, các nước thu nhập trung bình lại có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn trong hai thập niên từ 1990-2010 cũng như từ 1995-2015.
Một chuyên viên của Ngân hàng Thế giới có tham gia biên soạn tài liệu Trung Quốc 2030, sau này là đồng tác giả một công trình nghiên cứu bẫy thu nhập trung bình, lại đi đến kết luận: Không có bằng chứng gì về việc chững lại bất thường khi đạt đến ngưỡng thu nhập trung bình. Các nghiên cứu khác của Ngân hàng Phát triển châu Á, Đại học Columbia và đặc biệt là nghiên cứu của Lant Pritchett và Larry Summers, Đại học Harvard, cũng tỏ vẻ nghi ngờ về bẫy thu nhập trung bình. Nhà kinh tế Robert Barro cũng của Đại học Harvard cho rằng khái niệm này không có thật, rằng chuyển biến từ thu nhập trung bình lên mức thu nhập cao là đầy thách thức nhưng mức độ thách thức cũng không có gì đặc biệt hơn khi chuyển từ thu nhập thấp lên thu nhập trung bình.
Bẫy” - rào cản phát triển - không phải do thu nhập trung bình mà do các yếu tố khác
Nói tóm lại, có hay không có bẫy thu nhập trung bình đều được hỗ trợ bằng các lập luận và nghiên cứu. Nhưng dường như các nhà kinh tế nghiêng về hướng cho rằng cái bẫy, tức các rào cản quá trình phát triển, không phải do nước đó đang ở mức thu nhập trung bình mà xuất hiện. Rào cản là do các yếu tố khác làm việc áp dụng bốn con đường nâng năng suất nói trên bị nghẽn lại.
Trước đây người ta nói nhiều về bẫy thu nhập trung bình chỉ vì họ không có công thức gì cụ thể rõ ràng để áp dụng cho các nước có thu nhập trung bình. Bám vào chiến lược tăng trưởng cũ (như bám vào sản xuất thâm dụng lao động) cũng không ổn mà lao vào ứng dụng các chiến lược cao cấp như kiểu kinh tế tri thức, kinh tế số, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng không xong. Vì thế, tờ The Economist kết luận, bẫy thu nhập trung bình thật ra là tình thế tiến thoái lưỡng nan của các nước có thu nhập trung bình. 

TĂNG THUẾ GTGT: VÌ SAO BỘ TÀI CHÍNH  QUYẾT 'THU CÙNG DIỆT TẬN'?

THIỀN LÂM/ CaliToday/ BVN 8-1-2018

Bất chấp rất nhiều phản ứng của người dân, doanh nghiệp, giới chuyên gia về âm mưu tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) từ 10% lên 12%, điều quái gở và cực kỳ tàn nhẫn là Bộ Tài chính vẫn khăng khăng bảo lưu đề xuất này.
Mới vào đầu năm 2018, Bộ Tài chính đã chuyển Bộ Tư pháp thẩm định Dự thảo Luật sửa đổi các luật về thuế trước khi báo cáo Thủ tướng xem xét trình Quốc hội vào năm 2018. Trong dự thảo mới vẫn lồ lộ hiện hình đề xuất tăng thuế VAT từ 10% lên 12% và tăng theo lộ trình, mỗi năm tăng thêm 1% cho tới khi bằng 12%.
Theo giải thích của cơ quan chuyên tìm cách “móc túi” dân này, tăng thuế trong nước là nhằm bù đắp hụt do cắt giảm thuế theo các cam kết mà Việt Nam đã ký trước đó.
Theo Bộ Tài chính: “hiện nay Việt Nam đã ký kết 10 hiệp định thương mại tự do (FTA) và sẽ có hiệu lực trong giai đoạn từ nay tới năm 2020. Việc thực hiện các cam kết FTA khiến hàng rào thuế quan bị dỡ bỏ, làm nguồn thu ngân sách nhà nước bị ảnh hưởng. Cụ thể, ngân sách nhà nước sẽ hụt thu do giảm thuế nhập khẩu trong năm 2018 khoảng 30.150 tỷ đồng; năm 2019 hụt thu khoảng 36.340 tỷ đồng; năm 2020 hụt thu 43.965 tỷ đồng. Ngoài ra, thuế suất bình quân của toàn bộ hàng hóa nhập khẩu cũng giảm dần hằng năm theo lộ trình: Năm 2015 giảm còn bình quân 4,75%, năm 2016 còn 3,74%, và năm 2018 giảm còn 2,98%”.
Hàng loạt dấu hỏi lớn nổi lên là vì sao trước đây khi ồn ào khoe thành tích chạy theo phong trào ký FTA, Bộ Tài chính - một thành viên chủ chốt trong hoạt động đàm phán với các đối tác nước ngoài - lại chỉ thuần túy vẽ vời những lợi ích mà các FTA sẽ mang lại, chứ không hề đề cập - ít nhất trên phương diện công khai - về thủ đoạn sẽ “hồi tố” vào chính người dân của mình bằng cách tróc thuế đầu dân một khi các FTA không mang lại hiệu quả như mong muốn? Vì sao chỉ đến lúc kết quả thực hiện các FTA bị “đổ nợ”, Bộ Tài chính mới vội vã tham mưu cho chính thể độc đảng đè đầu dân thu thuế để “bù đắp khó khăn ngân sách”? Vậy với vai trò là cơ quan tham mưu chủ chốt, Bộ Tài chính có vô trách nhiệm đến mức đã góp phần và hiện thực “đổ nợ” ấy?
Đến thời điểm 15/12/2017, tức chỉ còn nửa tháng là hết năm 2017, tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm ước tính đạt 1.104 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 91,1% dự toán năm 2017 - theo số liệu vừa công bố của Tổng cục Thống kê.
Vào ngày 31/12/2017, hầu như chắc chắn chế độ “thu cùng diệt tận giai đoạn cuối” sẽ không thể đạt được kết quả “thu vượt dự toán” gần 10% theo kế hoạch đề ra, thậm chí chỉ tiêu gần nhất là thu vượt dự toán 2,3% cũng hoàn toàn bị phá sản.
Vào đầu năm 2017, trong lúc nền kinh tế Việt Nam lao vào năm suy thoái thứ 9 liên tiếp khiến rất nhiều gia đình phải thắt lưng buộc bụng bởi thu nhập ngày càng eo hẹp và đồng tiền ngày càng mất giá, Bộ Tài chính lại tìm cách “móc túi” tuyệt đại đa số công dân và người nghèo bằng một bản dự thảo sửa đổi Luật thuế bảo vệ môi trường với 8.000 đồng đánh vào 1 lít xăng. Một thứ trưởng của bộ này là Đỗ Hoàng Anh Tuấn còn trơ tráo đến mức tuyên bố về “thuế bảo vệ môi trường” là “được lòng dân hơn”!
Trước đó vào năm 2015, Bộ Tài chính đã đề xuất và được Quốc hội thông qua việc tăng gấp 3 lần thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu từ ngày 1/5/2015.
Vào thời điểm đó, Bộ Tài chính tính toán: chỉ riêng với thuế bảo vệ môi trường đánh vào các mặt hàng này, ngân sách dự kiến sẽ thu về hơn 35.000 tỷ đồng/năm, tăng khoảng 23.000 tỷ đồng/năm. Trong đó, riêng số thu thuế bảo vệ môi trường của mặt hàng xăng đã dự kiến là hơn 20.000 tỷ đồng/năm, tăng gần 14.000 tỷ đồng/năm. Rất đáng chú ý, con số này gấp 2 - 2,5 lần so với tổng thu thuế bảo vệ môi trường dự toán năm 2015, tương ứng tăng khoảng 22.500 tỷ.
Còn năm 2016, tổng số thu từ thuế bảo vệ môi trường đã tăng vọt gần gấp 4 lần so với năm 2014, nhưng chỉ có 30% trong số tiền này được báo cáo sử dụng để “bảo vệ môi trường”. Vậy số tiền còn lại “biến” vào túi ai?
Nếu Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đang bị dư luận xã hội cáo buộc về liên đới trách nhiệm với vụ nhập hàng triệu viên thuốc ung thư giả mà có thể đã khiến nhiều bệnh nhân ung thư phải chết đến hai lần, hậu quả mà Bộ trưởng tài chính Đinh Tiến Dũng gây ra khi đề xuất tăng thuế VAT (giá trị gia tăng) từ 10% lên 12% từ năm 2019 cũng có thể gây tác hại ghê gớm không kém tính độc dược của thuốc ung thư giả.
Mưu đồ tăng thuế VAT lại xảy ra trong bối cảnh dân tình Việt ngày càng khốn khó trong một nền kinh tế đã rơi vào thảm trạng suy thoái đến năm thứ 10 liên tiếp, một xã hội bị a xít đậm đặc bởi căn bệnh tham nhũng không còn cách gì cứu chữa. Thuế chồng thuế, chồng lên đôi vai gày guộc của người nghèo. Hàng triệu bệnh nhân, vốn đã bị các bệnh viện “bóp cổ bóp họng” và “không có tiền thì chỉ có chết”, sẽ phải nuốt nước mắt vào lòng với biểu viện phí chất cao như núi…
Thói vô tâm, vô cảm và vô trách nhiệm của giới quan chức Bộ Tài chính đã tích tụ từ nhiều năm qua và mang tính hệ thống.
T.L.

VNTB gửi BVN.

1 nhận xét: