Mối tình đầu bỏ lại bên dòng sông Hương

Tôi có cơ duyên gặp ông Đặng Văn Việt trong buổi gặp mặt truyền thống Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng tại Hà Nội mùa hè năm 2012. Hôm ấy trời mưa rất to, trong hội trường chật chội của Nhà văn hóa Quận Cầu Giấy, tôi thấy nhiều cựu chiến binh đeo quân hàm đại tá và cả cấp tướng chủ động len qua các hàng ghế để tiến đến chào, bắt tay hỏi han một ông già mặc thường phục… Khi buổi lễ chưa bắt đầu tôi đã đến gần Đại tá, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân La Văn Cầu rồi hỏi nhỏ: “Ông ơi, cho cháu hỏi ông cụ mặc áo sơ mi màu xanh trứng sáo kia là ai mà mọi người đều đến chào hỏi, bắt tay vậy ạ?”. Anh hùng La Văn Cầu quay sang nhìn tôi thoáng chút ngạc nhiên rồi bật cười nói: “Cậu không biết à, ông ấy là thủ trưởng của tất cả bọn mình ở đây đấy. Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn 174 - Hùm xám đường số 4 Đặng Văn Việt”.

"Hùm xám" Đặng Văn Việt, còn đó một chữ “tình”
Tác giả trò chuyện cùng cụ Đặng Văn Việt tại nhà riêng. 

Từ buổi gặp gỡ đó, tôi làm quen rồi thường xuyên “giao lưu” với ông Đặng Văn Việt. Khi thì tôi mời ông đi uống bia hơi, khi thì ông pha ấm trà đặc rủ tôi lên nhà uống nước, hút thuốc… Thời gian đầu, hầu như tháng nào tôi cũng chạy qua thăm, chuyện trò với ông ở căn phòng tập thể cũ trên tầng 4 khu Minh Khai. Thật khó hình dung, một cậu thanh niên trẻ ngưỡng 30 tuổi và ông già 92 tuổi lại trở thành “bạn vong niên” liên tục 10 năm sau, cho tới khi ông mất.

Trong rất nhiều chuyện về cuộc đời dài 1 thế kỷ đầy thăng trầm ấy, tôi rất xúc động về mối tình đầu của ông cách đây hơn 70 năm… Đặng Văn Việt nói rằng, cuộc đời ông có 5 biến cố quan trọng thì sự kiện đầu tiên là chính Cách mạng Tháng Tám, ông mất người yêu, mất vợ, mất mối tình đầu. Hôm ấy, ở quán bia hơi đầu ngõ Hòa Bình 7 nhà ông, ông đã kể: “Ngày ấy tôi 24-25 tuổi, trẻ trung, sung sức, đẹp trai, con quan (Bố ông là quan Tham tri Bộ Hình Đặng Văn Hướng), lại học giỏi (ông Việt học Trường Quốc học Huế). Nói thật tôi đi tán gái đâu là đổ ở đó. Nhưng tôi thù Tây cướp nước nên quyết tâm đi theo cách mạng. Tôi nghĩ một lòng phải giải phóng dân tộc nên không tính chuyện yêu đương ủy mị, gạt bỏ bao nhiêu thư tình và những lời ong bướm tuổi trẻ... Vậy mà "Le coeur a ses raisons que la raison ignore" (danh ngôn tiếng Pháp - Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết được).

"Hùm xám" Đặng Văn Việt, còn đó một chữ “tình”
Cụ Đặng Văn Việt (đứng giữa) trong ngày gặp mặt truyền thống Trung đoàn 174. 

Có một người con gái xứ Huế học cùng trường cứ thầm lặng bên tôi, ngày này qua ngày khác... tâm hồn và trái tim in hằn hình bóng nhau. Tôi yêu lúc nào không hay. Mối tình đầu như thế. Cách mạng Tháng Tám bùng lên, tôi đi theo Việt Minh tham gia hoạt động, cô ấy ở nhà xinh đẹp tài năng, nhiều người theo đuổi. Ba tôi sợ không giữ được cô ấy nên gọi tôi về cưới. Khi đó ba cô ấy là Thượng thư, ba tôi là Tham tri triều đình, hai gia đình đồng ý. Chúng tôi làm lễ cưới trang trọng lắm... Tôi còn chưa kịp động phòng thì 3 ngày sau lên đường theo cách mạng, vào chiến khu, bỏ cô ấy ở nhà.

Tôi đi bộ đội, mấy năm sau trở thành trung đoàn trưởng bộ binh chủ lực, chỉ huy Trung đoàn 174 với hơn 5.000 quân ở biên giới (đường số 4 từ Lạng Sơn đến Bình Liêu, Quảng Ninh). Nhiệm vụ cách mạng nặng nề cuốn đi, tôi không còn nghĩ tới điều gì riêng tư nữa... Tôi mất cô ấy là điều không tránh khỏi. Nhanh chóng và bất ngờ, vô vọng và bặt tin. Khi ấy tôi cũng 28-30 tuổi cầm quân đánh trận khắp nơi không sợ bom rơi đạn nổ, vậy mà mối tình đầu như vết dao cứa vào tim, đau xé lòng xé ruột ra, đến bây giờ hơn 70 năm rồi mà sao tôi không quên được.

Cuộc đời tôi chinh chiến 15 năm, đánh nhiều trận lớn nhỏ, bị thương 5 lần, nhiều lần chết hụt, chứng kiến bao cảnh máu đổ đầu rơi, bản thân gia đình cũng ly tán khắp nơi... nhưng vẫn đau vì mất người yêu. Tình yêu là thứ không lý giải được, nay tôi gần trăm tuổi, nói chuyện tình yêu thì nghe phi lý, nhưng thực sự có những nỗi đau đi theo trọn đời, thậm chí theo sang cả kiếp khác... Chữ tình là như vậy cậu ạ”.

Người “bạn vong niên” và niềm yêu cuộc sống đến tận cùng

Hùm xám Đặng Văn Việt có một niềm yêu thương cuộc sống kỳ lạ. Mặc dù bản thân và gia đình gặp không ít khó khăn vướng mắc trong rất nhiều năm nhưng ông luôn tin tưởng vào những giá trị chân thực của đời người và hầu như không bao giờ trách cứ ai. Tôi quen biết khi ông đã U100 nhưng có lần đến nhà chơi, tôi thấy ông đưa tay lên khoe cái nhẫn vàng rất to đeo trên tay rồi cười nói: “Thấy mình có gì mới không, bạn gái vừa tặng đấy, đẹp nhỉ. Nói thật với cậu, ngay cả lúc này đã 96 tuổi nhưng tuổi tinh thần của mình mới chỉ mới 60 thôi. Vì mình luôn nghĩ như thế mà đến tận hôm nay vẫn chạy xe máy, đi khiêu vũ, hẹn hò bạn bè, viết sách, làm thơ và… có bạn gái”.

"Hùm xám" Đặng Văn Việt, còn đó một chữ “tình”
Hùm xám Đặng Văn Việt kể chuyện cho thế hệ trẻ nghe. 

Cuối năm 2015, có đợt ông ốm tưởng không qua khỏi. Tôi đến thăm ông ở phòng điều trị nội trú bệnh nhân nặng trên tầng 8 của Bệnh viện Hữu Nghị. Đang nằm ngay góc giường, thấy tôi vào ông liền gượng dậy ngay và cười tươi dù thần sắc lộ rõ sự xuống sức. Khi các bệnh nhân khác cùng phòng đều đang nằm li bì thì “Hùm xám” lật tấm ga giường bệnh lên. Tôi ngỡ ngàng bởi hàng chục trang viết, hàng trăm tấm ảnh, bản thảo ngổn ngang vẫn đang được ông cần mẫn “tác nghiệp” mỗi lúc đỡ cơn ho...

Đặng Văn Việt có một ý chí phi thường, ông học thêm bằng kỹ sư xây dựng khi đã nghỉ hưu, đăng ký học tiếng Anh (đọc thông viết thạo) lúc đã ngoài 70 tuổi và viết hàng chục đầu sách khi đã ở tuổi “cổ lai hy”. Trong đó đặc biệt với hồi ký "Đường số 4 rực lửa", ông đã được tặng giải thưởng cao nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam vào năm 1999. Hồi ký được chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đích thân viết lời tựa và Đại tướng Hoàng Văn Thái viết lời giới thiệu.

Những năm cuối đời, do sức khỏe yếu không thể đi bộ lên tầng 4 khu tập thể nữa nên các con ông Đặng Văn Việt thuê một căn chung cư trên tầng 12 có thang máy ở cạnh khu nhà cũ để ở. Thời gian này ông ở bệnh viện nhiều hơn ở nhà, vậy mà cứ lại sức một chút là ông lại phóng xe máy đi khắp nơi. Năm ngoái ông ở tuổi 101 và mới hồi phục từ viện về nhưng khi chúng tôi để nhà thăm, chị con dâu bảo phải ngồi đợi ông đi chơi về đã chứ không ai giữ ông ở nhà được. Hôm đó trời mưa, người ướt lướt thướt do vừa chạy xe máy ngoài đường về nhưng ông vẫn hồ hởi kéo tay chúng tôi vào nhà, cho mỗi đứa mấy chiếc kẹo rồi lại hào hứng kể chuyện.

Ông nhiều lần nói với những người trẻ như chúng tôi đến chơi rằng: “Hơn 70 năm trước khi tôi bỏ Trường Đại học Đông Dương, bỏ gia đình, bỏ người yêu, bỏ lại tất cả… để đi theo cách mạng là mình đã chọn. Đi làm cách mạng là có vui, có buồn, có được có mất. Mình mất nhiều, buồn không ít nhưng cũng đã vui, đã được. Mình vui vì được sống tới hôm nay mạnh khỏe, chứng kiến đất nước đổi thay, nhân dân ngày càng cơm no áo ấm... Tôi đến giờ không danh hiệu, không chức tước, không nhà cao cửa rộng, không tài sản giá trị gì cả. Nhưng tôi được sống vui, sống khỏe và hơn cả là như lời Bác Hồ dặn: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

Thêm vào đó tôi có cái “tình”. Tình người ở khắp nơi xung quanh mình. Nếu không có cái “tình” đó thì tại sao những người trẻ không quen biết như các cậu vẫn tìm đến thăm, chơi với tôi. Tôi nói lại, làm cách mạng có vui có buồn, có được có mất. Cũng như cuộc đời tôi, mất và buồn có thể nhiều hơn nhưng tôi luôn nghĩ tới cái vui cái được. Tôi không bi quan nhưng cũng không lạc quan tếu. Sống thế nào để “trọn với non sông một chữ tình” mới khó các cậu ạ”.

Hôm nay, "Hùm xám đường số 4" Đặng Văn Việt đã về bên kia thế giới nhưng tôi tin ở trần gian vẫn còn nhiều người thương nhớ, mến phục ông. Trong đó có tôi, một người “bạn vong niên” trẻ tuổi may mắn được gặp ông trong đời.

HOÀNG TRƯỜNG GIANG

VĨNH BIỆT 'HÙM XÁM ĐƯỜNG SỐ 4' 

NGUYỄN MẠNH HIỆP / BVN 27-9-2021


Ở tuổi 100, Trung tá Đặng Văn Việt, con hùm xám đường số 4, trên chiếc xe ba bánh vẫn tự lái đi thăm bạn bè người thân và ngắm phố phường.

ĐẶNG VĂN VIỆT

[1920 - 25 tháng 9 năm 2021]

Cách đây mấy năm, tôi đã mong muốn rằng có một nhà báo nào đó yêu lịch sử sẽ làm một cuộc phỏng vấn ông Đặng Văn Việt. Cuộc phỏng vấn sẽ ở khía cạnh thu thập những thông tin lịch sử một cách chân thực. Và ngay cả khi những thông tin của cuộc phỏng vấn sẽ được tạm chưa công bố vì “thời điểm chưa thích hợp”, thì một cuộc phỏng vấn như vậy vẫn nên làm. Vì ông Đặng Văn Việt thuộc loại duy nhất của thế hệ cũ còn lại cho tới ngày hôm nay. Ông Đặng Văn Việt hẳn là biết rất nhiều chuyện, và ông ấy dường như còn minh mẫn cho tới cuối đời. Tiếc thay, điều đó không thực hiện được. Trung đoàn trưởng Cao Bắc Lạng đã ra đi ở tuổi 102 vào lúc 0h55’ sáng ngày 25 tháng 9 năm 2021 tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.

Nay xin đăng lại bài viết này của 5 năm trước. Ngay cả trước đây và sắp tới sẽ có rất nhiều bài viết về Con Hùm Xám Đường Số 4. Nhưng coi như qua mỗi bài viết của nhiều người, độc giả sẽ thu thập được một vài thông tin khác nhau, để hiểu và biết rõ hơn về nhân vật lịch sử này.

=== *** ===

Trung tá Đăng Văn Việt 1958. Ảnh: Thanh niên.

Ngày 16 tháng 9 năm 1950, mở màn trận Đông Khê để đánh chiếm thị xã Cao Bằng. Sử sách có thể coi đây là trận đánh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trận chiến này kết thúc ngày 7 tháng 10 năm 1950, tiêu diệt hai binh đoàn Pháp đi lạc đường trong khu vực Cốc Xá. Trong trận này, tướng Giáp đã dẫn một đội lính 10.000 quân để đánh nhau với 260 lính Pháp. Kết quả phía Việt Nam bị thương vong tới 500 lính mới chiếm được Đông Khê.

Tuy nhiên trước đó, ngày 25 tháng 5 năm 1950, đã có một chiến thắng Đông Khê nhưng không được sử sách nhắc tới. Điều này đã gây ngạc nhiên cho giới nghiên cứu quân sự quốc tế. Trận chiến này xác nhận sự xuất hiện của một nhân tài quân sự của Việt Nam: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cao Bắc Lạng (Trung đoàn 174) Đặng Văn Việt.

Sinh năm 1920, là người làng Nho Lâm, xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, tổ tiên ông là danh tướng Đặng Tất, Đặng Dung thời Hậu Trần. Cha ông là Đặng Văn Hướng, Tổng đốc Nghệ An của Chính phủ Trần Trọng Kim.

Thuở nhỏ, khi theo cha sang Pháp công tác, Đặng Văn Việt học 4 năm tại Trường Lycée de la Providence. Khi về nước, ông học thêm 4 năm nữa tại Trường Trung học Khải Định. Sau khi đỗ tú tài toàn phần năm 1942, ông ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương.

Mùng 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Trường Y khoa phải đóng cửa, ông cùng một số bạn hữu trở về Huế, tham gia khóa huấn luyện của Đoàn Thanh niên Tiền tuyến của Luật sư Phan Anh.

Ngày 21 tháng 8 năm 1945, ông cùng bạn học Cao Pha được giao nhiệm vụ trèo lên treo cờ Việt Minh ở cửa Ngọ Môn, Đại nội Huế. Mấy hôm sau, trong buổi lễ Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ông nghe viên chỉ huy đội cận vệ Hoàng gia kể lại, ngày 21-8, khi ông và đồng đội đang trên kỳ đài treo cờ, nhóm lính Hoàng gia từ nơi mai phục đã sẵn sàng nổ súng sát hại hai người, cũng may Bảo Đại kịp phát hiện và ngăn lại.

Năm 1947, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 4.

Năm 1948, ông kiêm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28. Ông đã chỉ huy quân đội Việt Minh hoạt động dọc tuyến đường số 4. Và do những chiến tích lẫy lừng trên con đường này, đặc biệt với các trận phục kích trên đèo Bông Lau từ năm 1947 đến 1949, tiêu diệt hơn 100 xe cơ giới quân sự Pháp, nhân dân vùng Cao-Bắc-Lạng xưng tụng ông là "Đệ tứ lộ Đại vương", còn các binh sĩ Pháp gọi ông với nhiều biệt danh khác nhau như "Hùm xám đường số 4" (le Tigre gris de la RC4), "tiểu tướng Napoléon" (mon petit Napoléon).

Khi Trung đoàn 174 chủ lực được thành lập ngày 19 tháng 8 năm 1949, trên cơ sở hợp nhất lực lượng của 3 trung đoàn thuộc 3 tỉnh: Trung đoàn 74 (Cao Bằng), Trung đoàn 72 (Bắc Cạn), Trung đoàn 28 (Lạng Sơn); ông được cử làm Trung đoàn trưởng đầu tiên và Chu Huy Mân làm Chính ủy đầu tiên.

Ông Đặng Văn Việt (đứng thứ 6 từ trái sang) thăm lại chiến trường xưa cùng các tướng lĩnh Pháp. Ảnh tư liệu.

Sau chiến thắng Đông Khê 1950, không may cho Đặng Văn Việt là sau đó Việt Minh cho phép quân Pháp được đưa máy bay lên sân bay Thất Khê để tản thương một số thương binh của họ trong trận Cao Bằng. Đại tá quân y Pháp Huard, trưởng đoàn đón thương binh, bước xuống sân bay Thất Khê trong bộ đồ dân sự. Trước kia, ông Huard có dạy cho sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội. Vì thế khi trông thấy ông thì một số bác sĩ quân y của Việt Minh trước kia từng là học trò của Huard, hiện đang chăm sóc các thương binh Pháp đang nằm chờ tại sân bay, đã ùa tới chào hỏi ông thầy. Sau đó họ kéo một người học trò cũ đến giới thiệu với Huard rằng đó là cựu sinh viên Y khoa đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 174. Huard vui vẻ rủ người học trò cũ theo trực thăng tản thương về Hà Nội thăm lại phố phường, rồi sáng hôm sau sẽ theo đoàn trực thăng tản thương trở lại Thất Khê. Người Tiểu đoàn trưởng bảo rằng anh ta chỉ về với điều kiện mặc nguyên bộ đồ bộ đội và được công khai dạo chơi bên hồ Hoàn Kiếm. Huard chấp thuận. Thế là anh ta xin phép Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt rồi nhảy lên phi cơ trước sự đùa vui của bạn bè. Sáng hôm sau anh ta trở lại Thất Khê.

Nhưng sau đó Chu Huy Mân báo cáo chuyện này cho Tướng Giáp. Võ Nguyên Giáp báo lại cho Hồ Chí Minh, và Hồ Chí Minh ra lệnh xử bắn ngay vì tội mất lập trường. Lệnh xử bắn do Chu Huy Mân thi hành và toán xử bắn là quân lính của Đặng Văn Việt. Sau khi bắn xong thì toán hành quyết buông súng, chạy tới ôm thây vị chỉ huy của mình khóc thảm thiết. Riêng Đặng Văn Việt bị cách chức Trung đoàn trưởng và bị cho đi cải tạo chỉnh huấn. Từ đó tên tuổi Đặng Văn Việt biến mất trong các tài liệu quân sử của Việt Nam.

Do “chủ nghĩa thành phần”, cuộc đời Đặng Văn Việt phải chịu nhiều thiệt thòi. Ông đã phải rời quân ngũ trước chiến dịch Điện Biên và mãi đeo lon trung tá, sống trong căn phòng diện tích 15m2. Trong khi viên Chính uỷ Trung đoàn 174 (Chu Huy Mân) của ông lên tới chức Đại tướng, Phó Chủ tịch nước!

Thượng tướng GS Hoàng Minh Thảo, Giám đốc Học viện Quốc phòng, năm 2001, phát biểu: “Đặng Văn Việt là nhà chỉ huy có tầm quốc gia, mặc dầu anh chỉ là Trung tá. Anh còn là nhà lý luận cừ khôi của quân đội cách mạng. Tôi xin ngả mũ trước cuộc đời yêu nước, oan khiên của cụ Đặng Văn Hướng và cuộc đời anh”. Nhiều cơ quan đã đề nghị Chủ tịch nước phong Anh hùng lực lượng vũ trang cho ông. Đặc biệt, Đại tá anh hùng La Văn Cầu đã gửi thư đề nghị, có đoạn: “Nếu tôi được phong anh hùng một lần thì tôi nghĩ thủ trưởng Việt phải được phong nhiều lần”!!

Tuy nhiên trong cái rủi cũng có cái may, cũng vì vụ kỷ luật mà Đặng Văn Việt bị đưa ra khỏi nhiệm vụ chỉ huy, sau đó cho ra khỏi quân đội. Nhờ vậy mà ông thoát chết trong vụ xử các sĩ quan chỉ huy vào năm 1953. Nếu Đặng Văn Việt còn chỉ huy quân đội thì chắc chắn bị xử tử vì ông là sĩ quan tốt nghiệp Khóa 1 trường Lục quân Trần Quốc Tuấn của Đại Việt Quốc Dân Đảng (Theo tùy bút của Trương Đăng Đệ); lại là con của Tổng đốc Nghệ An Đặng Văn Hướng. Năm 1953, gia đình của Đặng Văn Việt bị quy là “Đại địa chủ, cường hào gian ác”, ông Đặng Văn Hướng bị đấu tố cho đến chết (Hồi ký của Phó thủ tướng Đoàn Duy Thành). Lúc đó nếu Đặng Văn Việt còn giữ chức vụ chỉ huy trong quân đội, ông sẽ bị xử vì tội là kẻ thù của giai cấp mà lại tìm cách leo cao, luồn sâu trong Đảng để phá hoại (!).

N.M.H.

Ông Việt bị ông Giáp và ông Mân ghét là vì vụ cãi lệnh cấp trên trong một trận phục kích đèo Bông Lau năm 1948. Vụ đó Trung đoàn ông Việt diệt gọn 1 convoir [binh đoàn hộ tống] lính Pháp, thu được hơn 10 xe cơ giới. Ông Việt ra lệnh đốt hết xe rồi lăn toàn bộ xuống vực, chỉ giữ lại duy nhất 1 chiếc rồi tự lái về. Ông Giáp truy hỏi thì ông Việt trả lời rằng ông là người duy nhất biết lái xe. Nếu muốn thu giữ toàn bộ số xe đó thì quân Pháp có đủ thời gian để phục kích ngược lại mình. Ông Mân ghét vì ông Việt công khai chỉ trích mô hình chính ủy mà cố vấn TQ áp đặt lên quân đội VN.

Chinh Nguyen

Nguồn: FB Nguyễn Mạnh HiệpBVN bổ sung đầu đề và bổ sung ảnh trên mạng.

NHÀ QUÂN SỰ ĐẠI TÀI NHƯNG NGÂY THƠ LẠ LÙNG

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU/ BVN 27-9-2021

Ông Đặng Văn Việt và sách Hùm Xám Đường số 4

Đêm qua, lúc 20 giờ địa phương Calfornia, ngày Thứ Sáu 24 tháng 9, người cháu con ông anh Cả của tôi ở Hà Nội gọi điện thoại báo tin: Bác Đặng văn Việt mới qua đời.

Đặng Văn Việt có danh hiệu “Con Hùm Xám Đường số 4” do Thực dân Pháp đặt, vì anh đã chỉ huy Trung Đoàn 174 (một trong ba Trung Đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Việt Minh) đánh tan hai Binh Đoàn của Thực dân Pháp là Trung tá Marcel Lepage và Pierre Charton trên đường biên giới số 4. Năm 2000, những sĩ quan trong Binh đoàn Pháp mang quà sang Việt Nam mừng thọ 80 tuổi Con Hùm Xám vì sự đối xử văn minh theo quy ước Genève của Trung Đoàn trưởng Đặng văn Việt.

Anh Đặng văn Việt là con trai bác ruột của tôi – Thượng thư Đặng văn Hướng.

Dù hai anh em ở khác chiến tuyến, nhưng tôi rất yêu quý anh Việt, vì anh có bản chất hiền lành, thật thà đến độ ngây thơ, khiến đôi khi tôi phát cáu, lớn tiếng với anh mà anh không giận. Khi anh Việt sang thăm bà con ở Mỹ, tôi “dụ dỗ” anh ở lại, nhưng anh nhất định về, vì anh nói rằng đã là Cọp sinh ra ở đâu thì Cọp phải chết ở đó! Tiếc rằng cọp đã bị dũa hết móng vuốt!

Năm 2011, các con của ông anh cuối của tôi (Đặng văn Châu) đem tro cốt của bố từ Pháp về chôn tại nghĩa trang dòng họ Đặng ở Nghệ An. Dù bị địch xem là “thành phần có nợ máu với nhân dân”, tôi vẫn quyết định trở về nước, vì tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi với ông anh đã thương yêu mình hết mực, thây kệ bản thân mình ra sao thì ra.

Tôi đã bị hai Công An Văn Hóa giữ lại làm việc tại phi trường Nội Bài suốt 90 phút đồng hồ và vài ngày sau đó tại khách sạn hơn 4 giờ. Lúc bấy giờ anh Việt đã 91 tuổi, nhưng anh đến đón tôi đi chơi loanh quanh ở Hà Nội trên chiếc “scooter” cà tàng từ thời Bảo Đại còn trị vì, khiến cho tôi ngồi đằng sau cảm thấy bất an hơn cả khi lái máy bay vào đất địch.

Anh Việt thu xếp cho tôi có cuộc gặp gỡ với những đồng chí thuộc cấp của anh trước để trò chuyện. Những người này vốn con nhà tư sản nên đường binh nghiệp cũng lận đận giống anh Việt.

Anh Việt khoe với tôi: “Anh làm được mấy chuyện hay lắm chú ạ! Anh đã gửi đơn lên Bộ Chính Trị, lên Ban Chấp Hành Trung Ương yêu cầu đảng thi hành ba việc:

Thứ nhất, yêu cầu đảng trả lại danh dự cho Bác (tức là Thượng thư Đặng Văn Hướng, Bố của anh Việt).

Thứ hai, yêu cầu đảng phục hoạt Phong trào Hướng Đạo Sinh để đào tạo thanh niên.

Thứ ba, yêu cầu đảng nhìn nhận Sinh viên Trường Thanh Niên Tiền Tuyến có công Chống Pháp Giành Độc Lập”.

Tôi trả lời: “Em một lần nữa xin lỗi anh Việt nhé! Dù anh là một nhà quân sự đại tài, ngồi viết mấy cuốn Hồi Ký về lịch sử chiến tranh của dân Việt, nhưng anh vẫn ngây thơ một cách lạ lùng.”

Nghe tôi phản bác, anh Việt tỏ ra buồn rầu. Còn tôi thì cảm thấy thương ông anh mình.

Sau mấy ngày ở Hà Nội, tôi theo mấy cháu về Nghệ An chôn tro cốt anh tôi tại nghĩa trang dòng họ Đặng và làm giỗ Đại Tôn ở Nhà Thờ Họ. Hai anh em ở chung phòng khách sạn ba ngày, tôi cãi anh Việt đủ cả ba ngày, vì anh vẫn ngây thơ như một chàng sinh viên mới bước chân vào đời, mặc dù anh hơn tôi 20 tuổi và có một quá khứ lẫy lừng.

Tôi hỏi, sinh nhật 80 tuổi của anh, đảng có tặng anh cái gì không? Anh lắc đầu bảo không! Tôi nói: “Anh thấy chưa? Dù bọn Thực dân bị anh đánh tả tơi, bây giờ có người mang lon Tướng, nhưng vẫn nhớ ngày sinh nhật của anh, họ mang quà từ Pháp sang Việt Nam mừng anh.

Anh có biết thân sinh Giáo sư Trần Đức Thảo than thở với con ông điều gì không? “Giá như ngày xưa tôi cho anh học nghề thợ nề, thợ mộc thì ngày nay cái thân anh đỡ khổ, cái thân tôi đỡ khổ và cái dân tộc này đỡ khổ”. Đó là những lời ai oán của một cụ già tận tụy suốt đời nuôi con ăn học mà con lại góp phần vào sự khổ hạnh của dân tộc! Anh Việt thở dài: “Thôi! Anh hiểu rồi! Chú đừng nói nữa chỉ làm anh buồn thêm!”

Bây giờ người anh hùng năm xưa được Thực dân ngưỡng mộ, phong cho danh hiệu “CON HÙM XÁM ĐƯỜNG SỐ BỐN” đã về Trời ở tuổi 101. Em viết bài này để tưởng niệm một người anh thật thà, lương thiện, một anh hùng mạt vận vì chẳng may bị sinh vào dòng dõi danh gia vọng tộc.

Em cầu chúc anh Việt mau siêu thoát.

Đ.V.A.

Đặng Văn Âu là em con ông chú Cụ Đặng Văn Việt, một phi công và học giả nổi tiếng của VNCH

Nguồn:  FB Phạm Kim Dung.

VỀ 'CON HÙM XÁM ĐƯỜNG SỐ 4' 

ANDRÉ MENRAS/ TD 27-9-2021

Tôi thật đau buồn được tin cụ Đặng Văn Việt từ trần. Người bạn quý ấy, mỗi lần ghé Hà Nội, tôi đều đến thăm. Lần chót, chúng tôi gặp nhau là ngày 19 tháng hai 2018. Dưới đây, tôi xin trích lại những dòng ghi chép của tôi sau cuộc hội ngộ cuối cùng ấy.

«Vẫn ngổ ngáo và niềm nở như mọi khi. Ông cưỡi cái xe ba bánh che bạt chạy bằng điện, quà tặng của bạn bè. Bộ quần áo xám nhạt, hoen ố, gắn huy hiệu Võ Nguyên Giáp, mũ cát két xanh sẫm.

Chúng tôi ôm nhau. «Menras, năm nay tôi trăm tuổi rồi đấy!».

Nhà 125 phố Minh Khai, Hà Nội. Cuối ngõ nhỏ, một cái sân bao quanh bởi mấy chung cư xập xệ. Ông đậu cái xe ba bánh ở dưới sân, nhiều khi để luôn cả cái cặp đựng tài liệu trên xe, dẫn tôi leo cầu thang, dọc theo những bức tường cũ kỹ loang lổ, lên lầu ba, tới tấm cửa sắt của «BT 205» (BT là… Biệt Thự đấy !). Hai căn phòng nhỏ ở cuối một hành lang hẹp.

Ông pha trà. Rót rươu vào một chén nhỏ.

Năm năm liền, ông viết một cuốn sách về lịch sử quân sự Việt Nam, nhưng việc xuất bản gặp phải những chướng ngại hành chính và chính trị. Viện Lịch sử Quân sự vừa xuất bản bộ Quân sử 15 tập. “Một công dân cá thể không thể công bố một bộ sử như vậy được, đó là công việc của một viện, của Đảng…”.

Một nữ bác sĩ đã hứa đóng góp tài chính để xuất bản cuốn sách của ông, và nói chỉ cần chỉnh sửa đôi chút là cuốn sách có thể nhận được một giải thưởng quốc tế. Ông cũng tin chắc như vậy.

Đến giờ ăn, chúng tôi thận trọng từng bậc bước xuống cầu thang, đợi taxi đến đón chúng tôi tới tiệm ăn mà ông gọi là «bít tết Napoléon». Tôi mượn cửa hàng bên kia đường một cái ghế nhựa để ông ngồi đợi. Ông ngồi chờ ở góc phố, đợi mãi taxi vẫn chưa tới, ông đứng dậy, leo lên ngồi trên cái xe mô tô đậu gần đó. Quán Napoléon đóng cửa nghỉ tết.

Tới quán Lục Thủy gần hồ Gươm, chúng tôi ngồi bàn ngoài hè. Ông nhận xét «Việt Nam đang phát triển». Vào bữa, ông làm một đĩa «T bone steak» nhập từ New Zealand và kiên trì chiến đấu tới cùng, chỉ ngừng vài lần để cụng ly rượu vang đỏ Chilê. Chúng tôi kết thúc bữa ăn bằng ly kem và một cốc «Irish Coffee». Người chiến sĩ mang đầy thương tích trên người ấy có thể đọ sức với mọi tướng lĩnh bụng phệ trên thế gian này. Ông cụ mạnh khỏe, khang kiện về mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần.

«Khác với chúng nó, 70 năm tuổi Đảng tôi chưa hề ăn cắp một xu nào của nhân dân». Thời khóa biểu hàng ngày của ông? «Sáng dậy, một giờ thể dục. Sau đó đi nhảy và ăn sáng, một giờ rưỡi… Cả ngày viết sách, rồi một giờ học tiếng Anh».

«Cảm ơn chú đã mời tôi tham gia cuốn phim của Đào Thanh Tùng «André Menras: một người Việt». Thế là hình ảnh tôi được lưu trữ trong kho của Quân đội», ông cả cười. «Đảng này đang cản trở sự phát triển của đất nước. Khuất phục Trung Quốc. Tôi là một người lính bị bỏ quên. Không phải nhân dân, mà là lãnh đạo bỏ quên».

Giao tranh với quân đội thực dân 120 trận, «con hùm xám đường 4» đã đánh thắng 116 trận. Nhiều tù binh Pháp bị bắt không bị các đơn vị dưới quyền ông hành hạ. Nhiều người đã tỏ lòng biết ơn, thậm chí khâm phục ông. Ông đã viết 21 cuốn sách. Ông cười vang khi kể cho tôi nghe chuyện quân tàu (Tưởng) giải giới quân Nhật. «Khi viên sĩ quan Nhật hét to, ra lệnh cho quân lính trao nộp vũ khí, thì quân tàu hoảng sợ, toan bỏ chạy». Ông kể cho tôi nghe chuyện nạn đói 1945 ở Hà Nội, thời ông là sinh viên y khoa… Chuyện ông không được tham gia trận Điện Biên Phủ, nơi trung đoàn của ông bị tiêu diệt gần như hoàn toàn, còn ông thì bị gửi sang học quân sự ở Trung Quốc. Kể chuyện về hưu phải trồng rau đem bán ngoài chợ. Kể mà cười tửng tưng, coi những chuyện bị đối xử tàn tệ vì lý lịch «xấu» ấy là chuyện của ai khác. Ông nói: «Kể ra chú với tôi, cả hai chúng ta đều hơi khùng. Chú thì cắm cờ và rải truyền đơn trước quốc hội Sài Gòn, tôi thì cắm cờ trước hoàng thành Huế với một khẩu súng Colt không đạn». Tôi trả lời cờ của tôi còn có màu xanh, cờ của ông thì không. Và chúng tôi cả cười.

Lương hưu của ông mỗi tháng mười triệu đồng (340 EUR, chú thích của người dịch). «Cũng nhiều đấy, nhưng tôi còn phải giúp năm gia đình nghèo… Riêng tôi chả cần gì nhiều».

«Chỉ thích nhảy: boston, valse, tango, còn bọn kia – ông chỉ sang bên kia hồ Gươm nơi tượng đài Lý Thái Tổ – chúng bày ra chuyện nhảy để bịt miệng những người yêu nước».

Chia tay ông, tôi không biết đó là cuộc gặp cuối cùng. Tôi nhớ tới ông với tất cả sự kính mến đối với một người Việt Nam phi thường, chân chính và khiêm cung, một con người mà sử sách chính thức của một đảng phái vô ơn và bội bạc đã muốn quên đi. Vô phương. Tôi còn giữ cặp mắt kính cũ mà ông đã cho tôi khi cặp kính của tôi bị cán vỡ trong một tai nạn giao thông. Tôi thấy rõ, nhờ cặp kính ấy.

***

Je viens d’apprendre avec beaucoup de chagrin le décès de M. Đặng Văn Việt. C’était un très cher ami que j’aimais rencontrer lors de mes passages à Ha Noi. La dernière fois que nous nous sommes vus, c’était le 19 février 2018. Je vous livre ici les quelques notes brutes de littérature que j’avais prises de cette heureuse et ultime rencontre.

« Truculent et affable comme à l’ordinaire. Il arrive sur un tricycle électrique bâché que des amis lui ont payé. Costume gris clair, maculé de tâches, avec un petit écusson métallique à l’effigie du général Giáp, casquette bleu marine. Un petit air cabot.

Accolade. « Menras, je suis centenaire !».

Appartement au 125 rue Minh Khai à Ha Noi, une cour entourée d’HLM vétustes au bout d’une petite ruelle… Il laisse dans la cour le tricycle électrique, souvent avec sa serviette à documents et me guide dans les escaliers aux murs décrépis jusqu’au 3 ème étage vers la grille métallique de ce qu’il appelle sa « BT 205 » (biệt thự) villa 205. Etroit couloir avec deux petites pièces à son extrémité.

Là, il prépare le thé. Petite coupelle d’alcool.

Depuis 5 ans, Il écrit un livre sur l’histoire militaire du Viet Nam mais il a beaucoup de mal à l’éditer à cause des obstacles administratifs et politiques. L’institut de l’histoire de l’armée vient de publier 15 tomes. « Un citoyen particulier ne peut publier un tel ouvrage, il faut que ce soit l’institut, le parti, qui le fasse… ». Une doctoresse vietnamienne s’est engagée à l’aider financièrement pour la publication et lui a dit qu’avec quelques modifications, il pourrait prétendre à un prix international. Il le croit fermement. L’heure du repas arrivant, nous redescendons prudemment les escaliers et nous attendons le taxi pour aller au restaurant manger ce qu’il appelle un « bít tét Napoléon ». Je vais demander pour lui une petite chaise en plastique à la boutique d’en face. Il s’assoit au coin de la rue puis se lève d’impatience, le taxi n’arrivant pas, et va s’asseoir sur le siège d’une moto garée à proximité. Le « Napoléon » est fermé : c’est le Tết.

Arrivé au Lục Thủy, près du lac Hoàn Kiếm, nous nous installons sur la terrasse. Il me guide avec sa canne entre les chaises. Il s’installe et trouve que le « Vietnam se développe ». Il s’attaque au T bone steack de Nouvelle Zélande qu’il ne lâche pas tant qu’il ne l’a pas vaincu et trinque régulièrement avec du vin rouge chilien. Nous finissons par une crème glacée et… un « Irish coffee ». L’homme, le combattant criblé de blessures, vaut bien tous les généraux ventrus d’aujourd’hui. Il est solide et sain sur tous les plans, aussi bien physique qu’intellectuel.

« Contrairement à eux, en 70 ans de Parti je n’ai jamais pris un sou du peuple ». Son emploi du temps ? « Le matin au lever, une heure de gym. Puis danse pendant une heure et demie et petit déjeuner…Puis écriture du dernier livre en chantier suivie d’une heure d’apprentissage de l’anglais.

« Merci pour le film de Đào Thanh Tùng « André Menras : một người Việt » où tu m’as invité à paraître. Me voilà désormais dans les archives cinématographiques du Parti. » Rire. « Ce parti empêche le pays de se développer. Soumission à la Chine. Je suis un soldat oublié. Pas par le peuple mais par les dirigeants. »

Sur 120 batailles contre les troupes coloniales, le « tigre gris de la route N°4 » en a gagné 116 gagnées. Beaucoup de prisonniers français qui sous son commandement n’étaient pas maltraités. Certains lui en ont été reconnaissants et même admiratifs. Il a écrit 21 livres. Il me raconte, hilare, le désarmement des troupes japonaises par les Chinois. « Les Chinois ont pris peur et ont esquissé des mouvements de fuite quand l’officier japonais a hurlé l’ordre de remise des armes à ses soldats. » Il me raconte la grande famine de 1945 à Ha Noi, quand il était étudiant à la faculté de médecine… Il me raconte comment il fut privé de Điện Biên Phủ où son régiment fut décimé tandis que le Parti l’exilait en Chine dans une école militaire. Il me raconte comment, mis à la retraite, il a cultivé des légumes pour les vendre au marché. Toujours avec le sourire, comme si ces maltraitances et cet acharnement pour crime de curriculum vitae s’adressaient à un autre que lui. Il me dit : « Nous sommes un peu fous tous les deux : « toi, tu plantes le drapeau du Vietnam devant la chambre des députés de Saigon avec une poignée de tract, moi, devant la citadelle de Hue avec un colt sans balles ». Et je lui réponds que, sur mon drapeau, il y avait du bleu, pas sur le sien. Rires.

Il touche dix millions de dongs de pension par mois. « C’est beaucoup, mais j’aide cinq familles pauvres… Je n’ai pas besoin de beaucoup d’argent. »

« Moi, j’aime la danse : le boston, la valse, le tango, mais eux – pointant son doigt vers l’autre côté du lac où se trouve la statue de Lý Thái Tổ- ils dansent pour étouffer les voix patriotiques ».

Lorsque nous nous sommes séparés, j’ignorais que nous ne nous reverrions plus. Je garde de lui l’affectueux et respectueux souvenir d’un Vietnamien d’exception, authentique et modeste, que l’histoire écrite par un parti communiste ingrat et amnésique a voulu oublier. Sans succès. J’ai gardé aussi de lui une paire de vieilles lunettes qu’il m’avait offertes en dépannage quand les miennes avaient été écrasées dans la circulation. Pour que je continue à y voir clair.

André Menras

BÁO NHÂN DÂN ĐƯA THÔNG TIN SAI VỀ CỤ ĐẶNG VĂN VIỆT

NGUYỄN VIỆT LONG/ TD 28-9-2021

Trong bài viết mới đăng của báo Nhân Dân về Trung tá Đặng Văn Việt nhan đề “Vĩnh biệt huyền thoại – một người lính với số phận bi hùng“, có thông tin như sau: “Đặng Văn Việt theo học trường Quốc học Huế, nơi cha ông làm quan. Có thời gian, khi theo người cha sang Pháp công tác, cậu bé Việt đã học 4 năm tại trường Lycée de la Providence. Sau khi về nước, cậu còn học thêm 4 năm nữa tại trường Trung học Khải Định.

Trong đoạn trên có 2-3 thông tin sai. Trường Lycée de la Providence mà báo đăng có tên đúng là Institut de la Providence và tên Việt của nó là trường Thiên Hựu, thuộc Giáo hội Công giáo, thành lập năm 1933 và nằm ngay tại Huế chứ chẳng phải bên Pháp gì cả. Cụ Việt học trường này chứ có sang Pháp học bao giờ đâu. Chỗ đó nay là nơi tọa lạc của Trường Đại học Khoa học Huế. Tên gọi Institut de la Providence và cả tên Lycée de la Providence (mà bài báo dùng) khá phổ biến bên Pháp (tên các trường khác) nên người viết đã nhầm tưởng đó là một trường bên Pháp và đã cho hai cha con cụ Việt chu du sang Pháp dưới danh nghĩa “công tác” (và ở đó tới tận 4 năm!!!).

Providence còn được dịch là sự quan phòng [của Thiên Chúa], nghĩa là sự lo toan, sắp đặt của Chúa đối với mọi vật và được hiểu nôm na là Ý Chúa.

Còn cả đoạn trên khiến người đọc hiểu lầm là cụ Việt học trường Quốc học Huế, sau đó theo cha sang Pháp học 4 năm rồi về học trường Trung học Khải Định. Nhưng thực ra trường Trung học Khải Định và trường Quốc học Huế chỉ là một trường (mà tôi đoán là người viết cũng không biết là một trường nên mới viết vậy) và tên gọi Trường Trung học Khải Định được sử dụng trong suốt thời kỳ 1936-1954. Học xong trường này thì thi lấy bằng tú tài.

Đúng ra cụ Việt học 6 năm tiểu học ở Phong Điền, rồi vào học 4 năm tại trường Thiên Hựu (Institut de la Providence) ở Huế, sau đó học Trung học (Lycée) Khải Định và đỗ tú tài năm 1942 rồi ra Hà Nội học trường Y.

Đoạn thông tin sai thứ hai là: “Đặng Văn Việt được cấp trên điều ra Việt Bắc làm lãnh đạo Ban Nghiên cứu trực thuộc Bộ Tổng tham mưu. Cũng năm đó, theo yêu cầu của chiến trường, anh được cử làm Chỉ huy trưởng Mặt trận đường 4. Năm 1948, anh kiêm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28.

Khi cụ Việt ra Bắc, cụ làm huấn luyện viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, sau đó lên Việt Bắc làm tại Ban Nghiên cứu thuộc Phòng Tác chiến (sau làm trưởng phòng?), Bộ Tổng tham mưu rồi được cử làm phái viên của Bộ xuống các tiểu đoàn, trung đoàn tại mặt trận Đường số 4 khi Mặt trận Đường số 4 được thành lập, chứ không hề đảm nhiệm chức Chỉ huy trưởng Mặt trận đường 4. Phái viên không phải chỉ huy, mà bàn bạc tác chiến với các cấp chỉ huy đơn vị tại đó.

Nhiều tuổi hơn cụ Việt và từng làm trưởng phòng Tác chiến, rồi Phó tư lệnh Liên khu 1 là cụ Đào Văn Trường thì được cử đi đốc chiến ở Lạng Sơn và phụ trách Mặt trận Đường số 4 (cụ Trường sau này lên đại tá, có lúc làm Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu). Khi cụ Việt được cử làm Trung đoàn phó trung đoàn 28, thì cũng thôi nhiệm vụ phái viên, chứ không kiêm nhiệm gì cả. Khi Trung đoàn trưởng trung đoàn 28 tên là Liên Đoàn chuyển công tác, thì cụ Việt mới làm Trung đoàn trưởng trung đoàn 28, Chính ủy là Hà Kế Tấn.

Hóa ra hai đoạn sao chép có nhiều sai sót ở trên là lấy từ Wikipedia tiếng Việt. Đã có nhiều bài và sách báo viết về cụ Việt, nhưng lấy thông tin trên mạng thì cần chọn lọc và kiểm chứng, chứ không thì dễ ăn phải thông tin giả lắm.

P.S. Trong Chiến dịch Biên giới 1950 thì Đảng ủy Mặt trận Biên giới gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Lê Liêm, Bùi Quang Tạo (Võ Nguyên Giáp làm Bí thư Đảng ủy), không có tên cụ Việt nên cụ không thể là Chỉ huy trưởng Mặt trận thời kỳ này. Cụ Việt trung đoàn trưởng 174 được gọi lên họp ở Sở Chỉ huy tiền phương và đã đề xuất là đánh Đông Khê trước, thay vì đánh Cao Bằng, đề nghị này được chấp nhận.

Nguyễn Việt Long


MỘT LẦN GẶP BÁC ĐẶNG VĂN VIỆT
ĐÀO TIẾN THI/ TD 29-9-2021

Khoảng năm 2014 – 2015, vào một ngày đầu tháng giêng Âm lịch, ngay sau tết Nguyên đán, tôi được chú Nguyễn Khắc Mai mời gặp mặt đầu xuân. Nhà chú chật chội nên chú mời đến một cái quán, hình như gọi là quán Gió. Quán đặt ngoài trời lại vào đúng hôm gió mùa đông bắc về nên không sai tí nào với cái tên của nó. Gió mạnh và lạnh phát khiếp! Khách mời gồm một số chú, bác già, vài anh em trẻ, và vài người không còn trẻ nhưng chưa già như tôi.
Trời mỗi lúc một lạnh. Chủ quán phải đem vải bạt ra che chắn và sau còn phải nhóm lửa cho đỡ rét. Tôi để ý thấy có một bác nói chuyện suốt nhưng vì ngồi xa chỗ tôi nên ăn xong, cuối bữa tiệc, tôi mới lân la lại làm quen. Đó là bác Đặng Văn Việt, người mà cho đến lúc đó tôi cũng mới loáng thoáng biết đến cái tên và được mệnh danh là “Anh hùng đường số 4” thời chống Pháp. Năm ấy bác đã 94 – 95 tuổi. Hôm ấy bác vẫn đi đến bằng xe máy, một cái xe đã cũ lắm, tàng lắm. Thế mà nghe kể bác vẫn đi thường xuyên và có khi còn lai một bác nữa.
Càng về chiều gió càng mạnh và càng lạnh. Chúng tôi chưa già mà còn thấy không chịu nổi, nghĩ không khéo hôm nay về ốm mất. Ấy thế mà bác Việt U100 lại hầu như không thấy rét. Rồi có lúc gió quẩn khiến bếp lửa khói mù khói mịt, bác cũng chẳng bận tâm. Bác cứ nói chuyện suốt. Nói nhiều mà vẫn mạch lạc đến lạ lùng. Cũng không cần dừng lại nghỉ, cũng không lúc nào quên để phải dừng ít giây mà cố nhớ lại cái gì đó như thường thấy ở người già.
Qua câu chuyện của bác, cùng với lớp người như bác mà tôi biết (trong đó có cả bố tôi, kém bác 3 tuổi), tức là lớp người đã tham gia cuộc kháng chiến lần thứ nhất, tôi hình dung ra ngay những con người của thời ấy:

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu….
Đó là những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm khúc, ra đời cách đó đã 200 năm, nhưng cái lý tưởng cổ điển của “đấng nam nhi” đã sẵn ở trong máu những người thanh niên trí thức Việt Nam nhiều thế hệ, khi luồng gió thời đại thổi đến là họ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”, giống như hàng trăm năm trước.
Gần hơn nữa là bối cảnh của phong trào sinh viên yêu nước những năm 1943 –1945, mà lúc ấy bác Đặng Văn Việt đang là sinh viên Trường Đại học Y khoa Đông Dương. Tôi đã từng được nghe bác Nguyễn Xuân Sanh (nhà thơ Tiền chiến, sinh viên Luật khoa cùng sinh năm 1920 như bác Việt) kể về những ngày sôi sục với “Tiếng gọi thanh niên” khi đó: “Nào anh em ơi ! Tiến lên đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi sá gì thân sống…”
Ra về, bác tặng tôi một cuốn sách – loại sách tự in, chỗ vị trí tên nhà xuất bản có ghi rõ: “Sách cho bạn bè và các gia đình“.

Đêm đó về tôi đọc nghiến ngấu cuốn sách bác tặng. Gọi là “Hồi ký” nhưng thực tế bao gồm rất nhiều thể loại: Hồi ức, ký sự, ghi chép về bạn bè, thư từ, kiến nghị,… Tuy còn hơi luộm thuộm về các sắp xếp bài vở, văn phong, trình bày, chế bản, nhưng nội dung bài nào cũng hay.
Về nội dung, ngoài những chuyện như chuyện bác từng chỉ huy hạ cờ quẻ ly để treo cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn (Huế) ngày 21/8/1945, chuyện tham gia bắt sống toán biệt kích mà Pháp thả xuống Huế ngày 29/8/1945 trong kế hoạch chiếm lại Việt Nam, chuyện các trận chiến thời chống Pháp mà bác trực tiếp chỉ huy (hơn trăm trận), bác đề cập nhiều vấn đề nóng bỏng hiện nay của đất nước, như chuyện tham nhũng, chuyện sửa đổi Hiến pháp, chuyện đổi tên Đảng, tên nước, chuyện chủ nghĩa Mác – Lê nin, chuyện giáo dục thanh thiếu niên,…
Toàn chuyện người thực việc thực và những suy nghĩ thực trên thực tế đất nước chứ không viện dẫn bất cứ thứ lý luận gì. Tác giả lại diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ hết sức giản dị, chân thành, đôi khi pha giọng trào lộng, dí dỏm. Dưới đây là một vài ví dụ:
Về quốc nạn tham nhũng: “Hiện nay nước Việt Nam ta được thế giới xếp vào hàng ngũ những nước bị tham nhũng hoành hành vào loại nhất thế giới (…) Càng độc quyền càng chuyên chế, càng thiếu dân chủ, càng tăng tham nhũng“.
Trong bức thư gửi Bộ Chính trị để bênh vực ông Đoàn Duy Thành, cựu Phó thủ tướng (khi Trung ương cho một đoàn công tác về họp để xử lý ông Đoàn Duy Thành), tác giả viết: “Ông Đỗ Mười có lần là thủ tướng (…), nay cũng đã nghỉ hưu, cũng là một phó thường dân như ai (…), hai phó thường dân nói chuyện với nhau, có điều gì đúng sai, làm không vui lòng nhau thì nên gặp nhau, trực tiếp đối đáp, cãi cọ nhau, nếu cần thì mời cấp trên chứng kiến, chỉ một, hai tiếng là xong ngay (…), cần gì mà phải huy động đến các ban, ngành của Đảng, tổ chức của Nhà nước, cả Bộ chính trị để giải quyết việc đấu đá của các phó thường dân?” Và kết luận: “Việc chưa thực thi được ý đồ trả thù của ông Đỗ Mười là một việc may mắn cho Đảng (…) Thật là làm việc nhỏ, bỏ việc lớn“.
Một trong những hệ lụy của chủ nghĩa Mác – Lê nin là nó sinh ra “chủ nghĩa thành phần”. Tác giả viết: “Con người bị chia ra ba loại: thành phần cơ bản tốt là công nhân, bần cố nông; thành phần cơ bản xấu là địa chủ, tư sản, phú nông (…) Nhưng thành phần là cái gì? Là một loại thước đo kỳ lạ, muốn dài, nó có thể dài vô tận; muốn ngắn nó sẽ cụt lủn (…) Hôm nay tôi là tư sản, ngày mai tôi bị phá sản, tôi đã trở thành vô sản – thế mà lý lịch đã ghi là tư sản thì tôi vẫn mang tiếng là người giàu có suốt đời? Hôm nay tôi nghèo khổ, là vô sản, ngày mai tôi tham nhũng, vớ được món bở thành giàu bự, nhưng lý lịch đã ghi là vô sản thì tôi vẫn là thành phần cơ bản, nằm trong lực lượng lãnh đạo cách mạng?“.
Còn đây là cảm nghĩ sau khi đi thăm nước Mỹ về: “Hằng ngày qua báo chí, qua phim ảnh, tôi cứ tưởng nước Mỹ như con ngoáo ộp, chỉ là một cuộc sống hỗn loạn, toàn chuyện đâm chém nhau, nhân dân Mỹ sống nơm nớp dưới sự đe dọa của trùm khủng bố Bin Laden. Mỹ đi theo đường lối bành trướng bá quyền: quân đội tung đi khắp nơi gây chiến tranh, tàn sát dân lành một cách tàn bạo, nền giáo dục thì đồi trụy, hư hỏng, mại dâm, ma túy tràn lan (…) Vào giữa nước Mỹ mới thấy cuộc sống thanh bình, hài hòa, dân chủ, bình đẳng (…) Nếp sống văn minh của người Mỹ biểu hiện ở thái độ lễ phép, lịch sự, tôn trọng nhau, nhất là tôn trọng người già“.
***
Việc đời biết bao bận bịu lôi cuốn tôi đi, để hóa ra lần gặp bác Việt ấy cũng là lần duy nhất. Chứ tôi vẫn có ý định phải gặp bác nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày để nghe bác kể chuyện. Vì đây là những nhân chứng quá hiếm hoi còn sót lại của một thời kỳ đầy biến động. Để hiểu rõ cơ duyên nào đã dẫn dân tộc ta đến tình cảnh “không giống ai”?
Một thế hệ trí thức lớn lên dưới mái trường Pháp – Việt, vừa thấm nhuần lý tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái của cách mạng Pháp 1789, vừa mục kích cảnh mất nước, mất tự do của dân tộc, những cảnh lầm than cùng cực của nhân dân do chính người Pháp áp đặt lên. Thế là khi có cơ hội, họ đã “Xếp bút nghiên theo việc đao cung” để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc.
Thế nhưng làn sóng độc lập, tự do không phải đến từ một ngả mà từ nhiều ngả. Do đó những con người cùng mang lý tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái ấy lại đi theo những ngả rẽ khác nhau, đôi khi chỉ trong tích tắc, đôi khi rất ngẫu nhiên. Và bỗng nhiên trở thành kẻ thù của nhau,…
Đến nay chiến tranh đã chấm dứt gần nửa thế kỷ, nhưng những thành kiến và thù hận vẫn không vơi được bao nhiêu, kể cả trong phạm vi gia đình. Gia đình bác Việt và chính bác cũng là nạn nhân của hàng loạt chính sách sai lầm của nhà nước VN và của thành kiến, của thù hận trong nhiều mối quan hệ hôm nay. Bác Việt hiểu điều này lắm, nhưng bác có nguyên tắc riêng, bản lĩnh riêng, không hề chao đảo. Trong một bài viết hồi năm 2004, bác kể: “Bà đại diện lãnh sự quán hỏi tôi:
– Cụ có đầy đủ các điều kiện để ở lại Mỹ, cụ có ở lại không?
– Thưa không. Tôi sinh ra, lớn lên tại Việt Nam và tôi cũng thích chết ở Việt Nam“.
Có thể nói, về cuối đời bác Đặng Văn Việt sống giữa hai “lề”, cả hai lề đều có nhiều người yêu bác, cũng như nhiều người không ưa bác. Bác có đau, có buồn, nhưng về cơ bản là bác an nhiên, vui vẻ, sống hạnh phúc theo quan niệm riêng của mình.
(Ngày 27/9/2021, ngày vĩnh biệt bác Đặng Văn Việt)