Thứ Hai, 25 tháng 1, 2021

20210126. CỰU BỘ TRƯỞNG TƯ PHÁP NGUYỄN ĐÌNH LỘC QUA ĐỜI

 ĐIỂM BÁO MẠNG

CỰU BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP NGUYỄN ĐÌNH LỘC TỪ TRẦN
LÊ KIÊN/ TTO 25-1-2021

TTO - Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc vừa qua đời ở tuổi 86. Ông là người có nhiều đóng góp trong việc xây dựng dự thảo Hiến pháp 1992 và Bộ luật hình sự 1999.

Cựu bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc từ trần - Ảnh 1.

Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc - Ảnh: NGUYỄN KHÁNH

TS Nguyễn Đình Lộc từ trần ngày 24-1-2021, hưởng thọ 86 tuổi, ông là người có nhiều đóng góp cho công tác xây dựng pháp luật nước nhà trong thời đổi mới và chuẩn bị hội nhập, đặc biệt là pháp luật về hình sự, phòng chống tham nhũng và hiến pháp.

Sinh năm 1935, quê Diễn Châu (Nghệ An), ông Lộc là một trong số những thanh niên Việt Nam đầu tiên du học tại Liên Xô về chuyên ngành luật. Ông Lộc là tiến sĩ luật, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nguyên ủy viên Ủy ban Pháp luật, đại biểu Quốc hội nhiều khóa (VI, VII, IX, X, XI), nguyên bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Ông Lộc được đánh giá là một chính khách có cá tính, tư duy độc lập, sắc sảo, sẵn sàng tranh luận với các ý kiến khác, ông nổi bật trong các cuộc thảo luận ở nghị trường và là một nhân vật cởi mở với báo chí.

Ngay cả khi đã về hưu, ông vẫn đóng góp nhiều ý kiến có giá trị cho công tác lập pháp.

Sau khi Luật phòng chống tham nhũng 2005 có hiệu lực thi hành, trong một cuộc trả lời phỏng vấn Tuổi Trẻ năm 2006, ông từng nói: "Có thể nhận thấy dạng tham nhũng liên quan đất đai là khá phổ biến ở các địa phương và đó cũng là những vấn đề bức xúc nhất đối với dân. Ngoài ra, còn những dạng tham nhũng khác như thanh tra, thi hành án đòi hối lộ, đút lót để có những quyền lợi nhất định".

"Tham nhũng bây giờ không chừa lĩnh vực nào cả, có những lúc chúng ta tưởng "nó" chừa chỗ này, chỗ nọ, nhưng bây giờ có hết. Đơn cử hai lĩnh vực trước đây ít khi nói đến trong các vụ việc tham nhũng là y tế, giáo dục thì bây giờ đều đã xảy ra và rất phổ biến"

NGUYỄN ĐÌNH LỘC VÀ 'KIẾN NGHỊ 72'

PHAN THẾ HẢI/ TD 25-1-2021

Sáng sớm mở máy, biết tin cụ Nguyễn Đình Lộc qua đời, cụ ra đi trước khi đảng khai mạc Đại hội XIII. Ở tuổi 86, chuyện ra đi là không lạ, nhưng với cụ Nguyễn Đình Lộc lại khiến nhiều người tiếc nuối.

Tên tuổi của Nguyễn Đình Lộc gắn chặt với nền tư pháp nước nhà, một nền tư pháp còi cọc, chậm lớn bởi vô số những rào cản chính trị khiến nó khó phát triển.

Với tôi, cụ Lộc vừa là đồng hương, vừa là một chuyên gia pháp luật uyên bác nên đã có không ít lần được trò chuyện với cụ. Trong những lần ấy, cụ bày tỏ những trăn trở về một nền pháp quyền còn non trẻ thường xuyên bị lấn chiếm.

Thời mới lập quốc, dẫu chỉ là Chính phủ lâm thời nhưng cụ Hồ đã cử Vũ Trọng Khánh (1912) làm bộ trưởng Tư pháp của chính phủ lâm thời. Sau Tổng tuyển cử năm 1946, chức Bộ trưởng Tư pháp được giao cho cụ Vũ Đình Hòe nắm.

Sau hơn 13 năm tồn tại, Năm 1959, Bộ Tư pháp giải thể theo quyết định của Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I. Mãi đến tháng 7 năm 1981, Bộ này mới được tái lập. Bộ trưởng lúc đó là ông Phan Hiền, cụ Hiền nắm chức này gần 11 năm. Người kế nhiệm là Nguyễn Đình Lộc. Cụ Lộc nắm chức này hơn 10 năm, mãi tới tháng 8 năm 2002 mới rời nhiệm sở.

Như vậy, nhà nước Việt Nam trong đã có thời kỳ dài 12 năm = 1 con giáp, không có Bộ Tư pháp.

Cách đây gần chục niên, vào cuối năm 2012, một nhóm trí thức cho ra đời “Kiến nghị 72” gồm 7 điểm, với sự tham gia của cụ Nguyễn Đình Lộc, nguyên bộ trưởng Tư Pháp. Theo đó, nhóm 72 khuyến nghị bỏ Điều 4 Hiến pháp về quyền lãnh đạo “tuyệt đối và toàn diện” của Đảng CSVN và coi đó là điều kiện cần thiết để có thay đổi thực sự.

Kiến nghị có đoạn: “Dùng bạo lực và những thủ đoạn không chính đáng để duy trì chế độ toàn trị, cưỡng lại ý chí của nhân dân sẽ gây nguy hại lớn cho đất nước, cho dân tộc và cho cả Đảng CSVN”.

Kiến nghị viết thêm: “Kiến nghị 72 không có mục đích nào khác hơn là góp phần vào bước khởi đầu đổi mới thể chế chính trị theo tinh thần đó“… “chấm dứt cách đưa tin, bình luận một chiều, tạo điều kiện và khuyến khích thảo luận công khai, dân chủ, tranh luận thẳng thắn, nhằm đạt được sự đồng thuận tối đa theo tinh thần đoàn kết và hòa giải dân tộc“.

Kiến nghị 72 là vì có 72 người đứng tên trong danh sách đầu tiên ký vào Kiến nghị, bao gồm nhiều nhân sỹ trí thức được nhiều người biết đến như Nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo sư Tương Lai, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Tiến sỹ Nguyễn Quang A… Người dẫn đầu nhóm trí thức trao Kiến nghị 72 cho Quốc hội là cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc.

Trong một phát biểu hôm 25/2/2013, cụ Tổng đã ngầm ám chỉ tới bản kiến nghị này khi gọi các quan điểm về sự lãnh đạo của Đảng CSVN, tam quyền phân lập, phi chính trị hóa quân đội…. là “suy thoái đạo đức”.

Trong một hệ thống chính trị bị đồng phục hóa về cách nghĩ, về đường lối chính sách, cụ Lộc đã dám bày tỏ chính kiến cá nhân về việc xây dựng một nền hành chính pháp quyền, dẫu rằng nó đã nhanh chóng bị bóp chết, nhưng nó đã đi vào lịch sử của nền dân chủ nước nhà.

TIỄN BIỆT MỘT KẺ SĨ XỨ NGHỆ

NGUYỄN KHẮC MAI/ TD 25-1-2021

Sáng nay 25-1-2021 nhờ Nguyễn Hữu Vinh mà tôi biết được tin anh Nguyễn đình Lộc đã ra đi. Dẫu biết rằng tuổi tám sáu (86) là đã đến cõi, nhưng vẫn bùi ngùi, như có chút gì hụt hẫng.

Tôi bắt đầu biết rồi quen thân với anh Lộc từ một Hội Thảo marathon do ban khoa giáo tổ chức hồi năm 1991, đề tài xây dựng nhà nước pháp quyền. Cứ mỗi tuần một buổi họp, bàn về một chủ đề nào đó liên quan đến vấn đề Nhà nước và Pháp luật. Tôi nhớ có GS. Đoàn Trọng Truyến, cóViện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, anh Thảo, một nhà nghiên cứu luật học đáng kính và nhiều anh chị nữa, lâu rồi đã quên tên.

Đó là hội thảo lớn do chính hai ông Lê Đức Anh và Võ văn Kiệt chủ trì, để chuẩn bị “ný nuận” cho xây dựng bản HP 1992. Tôi chỉ còn nhớ mình đã phát biểu mấy vấn đề, mà anh Lộc đã bình luận: “Cậu có ý kiến táo bạo đấy”. Và dường như anh Lộc bắt đầu có cảm tình với tôi.

Tôi nói, phải xây dựng một đạo Luật cho hoạt động của Đảng và phải hghiên cứu để luật hóa tư cách nhà nước của BCH Trung ương, coi đó như vai trò của một Thượng viện. Nếu không, Đảng sẽ hoạt động vênh ra khỏi quỹ đạo của Luật pháp và Hiến pháp.

Tôi không biết ý kiến ấy có tác dụng gì không, hay chỉ như phát tên bắn vu vơ ở chân trời. Nhưng khi tôi còn làm việc, tôi nghe anh em bên văn phòng Trung ương nói, có lần ông Kiệt nêu ý kiến tại một cuộc họp Bộ Chính trị, rằng có người đề xuất phải có Luật hoạt động cho Đảng, nhưng không thấy ai động ria động mép phản ứng, nên ổng nói: Thôi, tội gì mình mua dây trói mình.

Về sau, một số anh em, trong đó có Vũ Mão, đã nêu lại vấn đề này công khai trên báo. Bây giờ tôi coi đó chỉ là chuyện tào lao. Điều đáng nhớ là, từ đấy, kể cả lúc anh Lộc là Bộ trưởng, cho đến lúc về hưu, anh Lộc đã rất thân thiết với Trung tâm Minh Triết. Chúng tôi mời anh dự nhiều sinh hoạt học thuật, đi dã ngoại với nhau …

Tôi đã đến thăm anh ở nhà riêng và anh cũng đến chơi với tôi, trà lá tâm đắc. Khi tôi phát hiện và cho công bố hai câu thơ sấm của Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Biển Đông vạn dặm dang tay giữ,

Đất Việt muôn năm vững trị bình.

Rồi tổ chức hội thảo công bố “Chương Trình Minh Triết Làm Chủ Biển Đông”, anh Lộc đã hăng hái tham gia góp với chúng tôi nhiều ý kiến. Anh thật thà thú với tôi làm cho tôi cũng cảm động: “Mai này, mình làm Bộ trưởng 13 năm, mà trong đầu hai chữ Biển Đảo rất nhạt”.

Đây quả là một con người lão thức, dám nói cái điều thiếu sót của mình. Tôi đã đến tận nhà anh, đem tặng anh bức thư pháp viết hai câu thơ sấm kể trên, khiến anh rất vui.

Bây giờ Lộc không còn nữa, nhưng cái chồi lộc ấy đã phát triển tươi xanh, góp nhiều năng lượng cho đời. Tôi càng nhớ anh, càng quý mến cái nhân cách kẻ sĩ của anh. Anh ra đi ở tuổi tám sáu (86).

Con số 86 rất có ý nghĩa. Như vào năm 86 ở ta có cái Đại hội VI, nó mở ra một lối đi mới, đặt lợi ích của Dân lên trên hết, mà quá trình đó luôn luôn là một cuộc đấu tranh của một bên là những mong ước chân thành, thật sự coi Dân là gốc, nước, còn một bên đang cố níu kéo cái cỗ xe Đất Nước để trở thành quốc gia không muốn phát triển, như một nhà trí thức nữ tâm huyết đã nhận định.

Nhưng tôi càng quý anh khi thấy anh thuộc về nhóm số một. Đó cũng chính là niềm vui, niềm tự hào của anh khi thanh thản ra đi, phiêu diêu vào một cõi vĩnh hằng.

Tiễn biệt Anh và trong tôi vẫn còn hình bóng của một cành Lộc tươi xanh, trưởng thành, đang lan tỏa vào môi trường một năng lượng của khí sắc một kẻ sĩ xứ Nghệ.

Nguyên Khắc Maingười già Ô Đồng Lầm, Hà Nội.

VỚI BỘ TRƯỞNG TƯ PHÁP NGUYỄN ĐÌNH LỘC

LÊ NGỌC SƠN / TD 25-1-2021

10-15 năm trước, tôi hay qua lại mạn đường Huỳnh Thúc Kháng, và vào nhà của hai cựu Bộ trưởng ở hai con ngõ cạnh nhau: Nguyên Bộ trưởng Tư pháp TS. Nguyễn Đình Lộc và nguyên Bộ trưởng Thủy sản TS. Tạ Quang Ngọc.

Với TS. Nguyễn Đình Lộc, tin ông mất không làm tôi ngạc nhiên vì biết ông bệnh nặng mấy năm nay, nhưng đầy tiếc nuối. Ông là người giỏi, thông minh trong ứng biến. Có lần đến nhà chơi, ông đang rửa bát chạy ra dặn “Sơn khóa xe cho cẩn thận nhé, chỗ này giờ toàn bị cạy khóa xe”. Rồi bước vô nhà, ông đùa: Cháu thấy không, hết làm Bộ trưởng về nhà phải rửa bát cho vợ.

Nói về ông thì dài, nhưng tóm lược như này: Là tiến sĩ luật đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M. V. Lomonosov. Năm 1956 bắt đầu đi học. Năm 1962 về nước. Năm 1974 mới đi học nghiên cứu sinh (NCS đầu tiên ngành luật).

Có 10 người xuất sắc trong 500 người học luật ở Liên Xô, riêng Việt Nam có 3 người thì 3 người đều xuất sắc. Ông Lộc cho biết, ông phải đi cải tạo vì Liên Xô hồi đó cũng… cải tạo vì chủ nghĩa xét lại và ông có ba năm phải đi làm… thư ký tòa án huyện.

Năm 1980 ông về nước phục vụ tổ xây dựng Hiến pháp 1980. Năm 1992, ông là Ủy viên Ban Sửa đổi Hiến pháp. Ông Lộc là Bộ trưởng Bộ Tư pháp 2 khóa (từ 1992 đến 2002), ĐBQH các khoá 7, 9, 10, 11.

Dưới đây là một trong những cuộc trò chuyện giữa tôi với ông. Bức ảnh tôi chụp 13 năm về trước. Cuộc trò chuyện thực hiện cách đây 10 năm về trước, đều tại tư gia của ông.

Ông Nguyễn Đình Lộc. Ảnh: FB tác giả

***

Đường ray và đạo luật gốc

Tiến sĩ luật Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có cuộc trò chuyện với Lê Ngọc Sơn xung quanh câu chuyện về hiến pháp dưới góc độ luật học, và chuyện sửa hiến pháp (mà kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII bàn tới…).

Đọc lịch sử qua hiến pháp

Lê Ngọc Sơn: Thưa ông, là chuyên gia hàng đầu về luật, theo ông cần hiểu thế nào về hiến pháp? Nhiều người nói rằng hiến pháp như là lược sử của một đất nước, ông nghĩ sao?

TS Nguyễn Đình Lộc: Hiến pháp là đạo luật cơ bản, mà luật cơ bản thì phải ghi nhận được những điều căn bản của đất nước. Mọi trạng thái cơ bản của xã hội được ghi nhận trong hiến pháp. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, thời kỳ những năm đầu 1980 thì thực chất hiến pháp đã thể chế hóa chế độ quan liêu bao cấp, duy ý chí. Chẳng hạn như hiến pháp 1980 có một điều là chúng ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu mà tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa, nhưng như thế nào là tiến thẳng lên thì cũng không hiểu.

Điều 21 của Hiến pháp này nói rằng nhà nước độc quyền về ngoại thương, tất cả các lĩnh vực kinh tế dối ngoại là nhà nước nắm hết. Nhưng bây giờ nghe những chuyện ấy lại cảm thấy buồn cười (Cười). Nhưng mà đó là chúng ta ghi vào hiến pháp, tức là hiến pháp năm 1980 là nó thể chế hóa kinh tế, tập trung vào quan liêu bao cấp, nhìn lên con đường tiến đến XHCN của chúng ta một cách hơi dễ giãi, quá ngắn ngủi, chúng ta hình dung là việc xây dựng XHCN là của Nhà nước chứ không phải của toàn xã hội. Do đó, Nhà nước năm hết nền kinh tế đối ngoại. Đó rõ ràng là một điều không phù hợp.

Lê Ngọc Sơn: Theo ông, nếu nói với các bạn sinh viên về tầm quan trọng của hiến pháp thì ông sẽ nói gì?

TS Nguyễn Đình Lộc: Thì bây giờ chúng ta phải hình dung được rõ, hiến pháp là đạo luật gốc, như một đường ray để con tàu đất nước chạy trên đó. Và khác với các nước, trong hiến pháp của chúng ta ghi nhận mọi mặt của đời sống xã hội. Ở các nước chủ yếu là bộ máy nhà nước, hiến pháp của Mỹ là bộ máy nhà nước và quyền con người, còn hiến pháp của chúng ta có chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ tổ quốc XHCN, quyền lực của mỗi công dân,… Tóm lại, hiến pháp của chúng ta khác một số nước là nó thể chế hóa đời sống xã hội…

Lê Ngọc Sơn: Như vậy, hiến pháp có vai trò cực kì quan trọng đối với một đất nước. Sẽ như thế nào nếu một hiến pháp không phản ánh đúng hơi thở của cuộc sống, mà chỉ phản ánh tư duy chủ quan của con người, thưa ông?

TS Nguyễn Đình Lộc: Không phải là ngẫu nhiên mà xã hội ta lại trải qua một thời kỳ được gọi là khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài (những năm 1975 và sau 1980). Năm 1986 là năm bắt đầu đổi mới nhưng thực sự là đến năm 1992 (sau Đại hội Đảng lần thứ VII, 1991) thì đất nước mới thực sự thay đổi. Năm 1986 chỉ mới đưa ra chủ trương, đường lối. Một khoảng thời gian dài cả một đất nước đang đi lên XHCN lại bị khủng hoảng kinh tế xã hội do đường lối sai lầm trong hiến pháp 1980 để lại. May mắn là sau đó thì chúng ta cũng đã thẳng thắn nhìn nhận và sửa đổi.

Lê Ngọc Sơn: Vậy thì tại sao tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII, lại phải bàn đến chuyện sửa hiến pháp 1992, theo ông?

TS Nguyễn Đình Lộc: Vấn đề đặt ra là từ năm 1992 đến bây giờ (2011) là 19 năm rồi. Thực ra, đến năm 2001 có chủ trương sửa nhưng chỉ mới sửa đổi được một số điều, chẳng hạn như năm 2001 đưa ra một số điều rất mới về bộ máy nhà nước: quyền lực nhà nước thống nhất có phân công phối hợp. Trước đây, khi xây dựng hiến pháp năm 1980 thì chính Đại hội Đảng nói rằng quyền lực nhà nước là do Quốc hội nắm hết, nhưng đến bây giờ thì đón nhận một cách hiểu mới: quyền lực nhà nước là chung và thống nhất. Thống nhất khác với tập trung: tập trung là dồn về một chỗ, một điểm còn thống nhất là một sự hòa hợp các bộ phận kết hợp lại thành một thể thống nhất. Thống nhất là chung nhưng lại có sự phân công công việc vì quyền lực nhà nước, và muốn thực hiện thì phải có ba phương thức: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Vì sao phải sửa hiến pháp?

Lê Ngọc Sơn: Theo tôi hiểu là việc thay đổi hiến pháp cũng là việc chúng ta đang trăn trở về hướng đi, con đường đi của đất nước?

TS Nguyễn Đình Lộc: Đúng rồi, cứ hình dung là hiến pháp năm 1959 đến hiến pháp năm 1980 là thay đổi hẳn.

Chúng ta cần hiểu xã hội mình đi tắt qua nhiều giai đoạn phát triển, lúc đầu chúng ta là nước nông nghiệp lạc hậu, là nô lệ thì chúng ta phải có giải pháp để tìm độc lập, và khi chũng ta chuyển sang thể chế quan liêu bao cấp thì chủ trương, đường lối phải trở thành luật, trở thành hiến pháp. Nhưng sau đấy lại thấy những điểm sai, những điểm chưa được hoàn thiện, qua một số giai đoạn chúng ta đã xóa bỏ quan liêu bao cấp, đi theo cơ chế kinh tế thị trường… Nghĩa là xã hội mình đang phát triển và trải qua các mô hình, các giai đoạn khác nhau, và chủ trương, đường lối của mỗi giai đoạn được thể chế hóa, trở thành hiến pháp để cho mọi người trong xã hội làm theo.

Lê Ngọc Sơn: Nhưng cũng vì thể chế hóa tất cả mọi thứ nên phải chăng hiến pháp của ta cũng phải sửa nhiều hơn?

TS Nguyễn Đình Lộc: Đúng vậy. Nhưng trên thực tế, thì hiến pháp của Mỹ (hiến pháp đầu tiên của thế giới) thì cũng đã phải sửa đổi 27 lần. Lúc đầu nó có 7 điều về tổ chức bộ máy nhà nước, vì tính chất liên bang của nước Mỹ. Dù có nhiều thay đổi nhưng mà 7 điều vẫn giữ nguyên vì bộ máy vẫn như thế, vẫn nghị viện, vẫn hạ viện, vẫn tổng thống chứ. Còn ở ta, quy định người đứng đầu đất nước là chủ tịch nước mà hiến pháp năm 1946 so với 1959 là khác. Hiến pháp 1980 chúng ta không gọi Chủ tịch nước mà gọi là Chủ tịch Hội đồng nhà nước.

Lê Ngọc Sơn: Như vậy, để có một hiến pháp ổn định, thì vấn đề là cần phải chọn lọc vấn đề nào thì nên đưa vào hiến pháp?

TS Nguyễn Đình Lộc: Đúng, thế nên giờ mới có quan điểm là nên đưa vào hiến pháp cái gì? Chứ không phải ghi hết như lâu nay, mà ghi hết như lâu nay thì vấn đề đăt ra là phải liên tục sửa đổi. Chẳng hạn như hiến pháp Liên Xô phải thay đổi đến 140 lần: Hiến pháp từ năm 1946-1977 sửa tới mấy chục lần, vì trong hiến pháp quy định chính phủ có bao nhiêu bộ phải ghi vào hiến pháp. Và cứ mỗi lần thêm hay bớt một bộ lại phải sửa hiến pháp. Thế nên bây giờ phải cân nhắc về đạo luật cơ bản, luật gốc thì phải thật sự khái quát, những cái gì chung chứ không phải đi quá chi tiết, cụ thể…

Theo nguyên lý, Hiến pháp cũng có một quan điểm nhất quán, rõ ràng thì nó cứ thế mà làm. Lúc đầu thì chúng ta có bản hiến pháp năm 1946. Sau đó lại thay đổi bằng hiến pháp năm 1956, rồi bản hiến pháp năm 1959. Đến bản hiến pháp năm 1980 lại hoàn toàn khác, rồi đến hiến pháp năm 1992 lại khác hiến pháp trước đó. Tức là ngay từ đầu mình đã không ý thức rõ ràng thế nào là hiến pháp?. Và nếu ngay từ đầu đã xác định rõ ràng như thế thì cứ thế mà làm, nhưng vì chưa xác định được rõ, nên chúng ta liên tục thay đổi mô hình hiến pháp.

Còn nhiều chuyện “đau đầu”…

Lê Ngọc Sơn: Theo ông, vấn đề “nóng” nhất trong chuyện sửa hiến pháp hiện nay là gì?

TS Nguyễn Đình Lộc: Nhiều lắm, như câu chuyện về sở hữu đất đai chẳng hạn. Hiến pháp chưa công nhận quyền sử dụng đất của người dân, nhưng trong bộ luật Dân sự lại công nhân quyền thừa kế đất đai. Theo nguyên lí, thì nhẽ ra người đi mượn là chỉ mượn, còn người sở hữu là người sở hữu, thì có nghĩa là khó mà người mượn lại cho người khác thừa kế tài sản mượn được.

Theo tôi, đây là một vấn đề rất lớn, trả lại đất cho người dân thì hợp lý hơn. Nhưng cũng sẽ là đau đầu, vì thực tế hiện giờ có người sử dụng hàng trăm héc-ta, nếu giờ ta công nhận quyền sở hữu thì những liệu một người có được sử dụng hàng trăm héc ta như thế không, trong khi những hiện nay không có đất thì sẽ thế nào?! Đây là vấn đề nan giải, dích dắc…

Lê Ngọc Sơn: Theo ông, đây có phải là một trong những vấn đề của việc sửa hiến pháp lần này?

TS Nguyễn Đình Lộc: Đây là một trong những điều trọng tâm, cho nên bây giờ đặt ra vấn đề sửa đổi cơ bản hay sửa đổi một bước là thế. Bởi vì bản thân Quốc hội bây giờ cũng thế, tại đại hộ VII đưa ra quốc hội hoạt động chuyên nghiệp thường xuyên, vì đại bộ phận các nước trên thế giới thì quốc hội hoạt động thường xuyên, có tinh chuyên nghiệp, ăn lương nhà nước. Đến lúc đến tuổi về hưu thì nghĩ đến chuyện nhận lương hưu.

Ta bây giờ cứ lơ lửng, đại biểu quốc hội của chúng ta đã làm đúng chuyên trách chưa? Hay là họp xong thì lại về lại lo việc gia đình? Nhớ rằng, bình quân chi phí của một kì bầu cử ĐBQH, để chọn được một đại biểu chúng ta phải tiêu tốn khoảng 1,2 tỉ đồng. Người dân bỏ cả một số tiền lớn để chọn ra một ông đại biểu cho mình, thế nhưng có ông đại biểu thì cả nhiệm kỳ chẳng bao giờ giơ tay. Xin cảm ơn ông!

KẺ SĨ CỦA NỀN PHÁP QUYỀN DANG DỞ

TÂM CHÁNH/ TD 25-1-2021

Ông Nguyễn Đình Lộc cùng nhóm “Kiến nghị 72“. Ảnh: internet

Một khung cảnh không hẳn đáng buồn nhưng lại thấm buồn khi nhận tin cựu bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc từ trần.

Ông Nguyễn Đình Lộc là một trụ cột luật học XHCN ở Việt Nam. Nhưng bản thân ông cũng không thể sử dụng tri thức ấy bảo vệ cho hành động đúng đắn của mình, cùng nhóm 72 trình bày ý kiến sửa đổi nền chính trị toàn trị của đảng.

Sự nghiệp của ông là những mảnh vá, chắp nối những lí lẽ biện minh cho tính bất toàn của nền luật học XHCN, khi áp đặt nó thân phận chính thống.

Nhưng đó lại là một luận văn sinh động về sự phát triển tư tưởng pháp luật ở Việt Nam, từ chỗ là công cụ của chế độ cầm quyền, đến tạo ra khuôn khổ cầm quyền của chính chế độ ấy.

Bản luận văn ấy đang dang dở.

Ngay từ chính vai trò bộ tư pháp mà ông là một bộ trưởng quả cảm và liêm chính. Cho đến nay, chỉ trong phạm vi pháp luật về tố tụng, dường như thực tế đang cùng lúc tồn tại ảnh hưởng từ các lò luật học chi phối cách hiểu pháp luật: lò luật học từ các trường an ninh, cảnh sát, lò luật học truyền thừa từ đại học pháp lí, và lò luật học mạnh về nghiên cứu luật học. Đây là một thực tế gian nan cho tiến trình cải cách tư pháp vốn được khai sinh dưới thời bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc.

Ông là một kẻ sĩ thực thụ của giới luật học, không cần thêm lời truyên bố “dù sao thì trái đất vẫn quay”.

Điều đó nhất quán trong hành trang tư tưởng của ông, từ chính những lần ông phải tham gia với tư cách là một giáo sư đỏ của đảng, như các lần biên soạn và sửa đổi hiến pháp sau 1975.

Nó nhất quán với phẩm đức một người thầy lôi cuốn, say sưa truyền cảm hứng.

Nó càng nhất quán với tư cách liêm chính của một bộ trưởng hào sảng, cởi mở.

Thế hệ nhà báo ù ù cạc cạc với những kiến thức về thể chế, về pháp quyền, các lí luận về quyền lứa chúng tôi tìm thấy trong các phát biểu của ông chỗ dựa tìm đến các hiểu biết mạch lạc. Rồi được bổ túc bằng các cuộc tiếp xúc cởi mở, khi thì phỏng vấn riêng, khi thì tụ tập năm ba người.

Chưa bao giờ tôi nghe trong các dịp gặp gỡ đó, ông nói theo lối tranh thủ chia sẻ về thành tích hay khó khăn của bộ. Lần nào cũng vậy là những điều say sưa về câu chuyện pháp quyền.

Có lần tôi còn bạo gan “rủ” bộ trưởng, có công tác trong Nam ghé nói chuyện với đội ngũ Tuổi Trẻ. (Hồi đó trẻ măng mà sao khoái đội ngũ thế. Với lại tôi còn nghĩ bộ trưởng một bộ còn mới mẻ như bộ tư pháp phải cần đến báo chí tụi tôi).

Vậy mà một buổi sáng bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc sau một cú điện thoại đã đến thật. Như lệ thường ông đầy cảm hứng.

Tôi thực sự biết ơn ông. Ngay cả khi ông không còn trong nhân gian nhỏ bé nhưng bụi bặm và trần ai này.

NGUYỄN ĐÌNH LỘC, CON CHIM PHẢI THEO BẦY

JACKHAMMER NGUYỄN/ TD 26-1-2021

Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc. Photo Courtesy

Một nhân vật vừa qua đời ở Việt Nam, cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc, được cả truyền thông lề trái lẫn lề phải dành cho những từ ngữ, nếu như không bóng bẩy quá, thì cũng là kính trọng. Ít có nhân vật cộng sản có quyền có chức Việt Nam nào được như vậy.

Ông Lộc thuộc những thế hệ đầu tiên mà miền Bắc cộng sản đưa sang Liên Xô đào tạo, để tiến hành việc tổ chức một mô hình nhà nước, xã hội theo kiểu Xô Viết. Ông, cũng như nhân vật đang đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) hiện nay, Nguyễn Phú Trọng, không phải tham gia cuộc chiến Việt Nam nhiều chết chóc.

Ông Lộc được đào tạo trong một lãnh vực rất tréo cẳng ngỗng với ý thức hệ cộng sản, là lĩnh vực tư pháp. Ý thức hệ này đưa ra mô hình chuyên chính (chuyên chế, độc tài) công nông, mà đã chuyên chế thì cần gì pháp luật. Thực tế đó diễn ra trong tất cả các xã hội cộng sản, trong cả những xã hội cộng sản lai tạp như Việt Nam, Trung Quốc ngày nay.

Theo quan điểm của xã hội dân chủ phương Tây, thì pháp luật, một mặt dùng để duy trì trật tự đời sống hàng ngày, mặt khác quan trọng không kém là để kiểm soát sự lạm quyền của các nhánh quyền lực khác nhau, và vì thế nó độc lập.

Nếu ta tạm cho rằng, tư pháp cộng sản cũng có phần được dùng để duy trì trật tự cuộc sống hàng ngày, thì phần còn lại hoàn toàn không có. Bộ máy pháp lý cộng sản chỉ được dùng để tăng cường quyền lực của đảng cộng sản mà thôi, vì thế nó nằm chung với cái gọi là dân chủ tập trung của họ, dưới sự chỉ đạo của đảng.

Người cộng sản cũng không giấu diếm điều này, mà nói như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, họ có một sự ghê tởm pháp luật trong cái vô thức bí mật của họ.

Nhưng nếu không kiểm soát quyền lực thì trật tự cuộc sống hàng ngày sẽ rất bấp bênh, bởi sự lạm quyền, bởi sự oan ức không được xét xử. Cái gọi là nền tư pháp xã hội chủ nghĩa (cộng sản) mâu thuẫn với chính nó ngay từ nguyên tắc.

Đó là những câu hỏi đầy mâu thuẫn mà những người có xuất phát điểm như ông Nguyễn Đình Lộc sẽ phải trả lời, không sớm thì muộn, nếu họ là những người đàng hoàng.

Điểm lại cuộc đời của ông Lộc thì hẳn sẽ thấy ông là một người … tuân thủ, không phản kháng, đảng đặt đâu ông ngồi đấy. Cũng là chứng nhân của những biến động … xét lại, tại Liên Xô, nhưng ông không có cái can đảm như Hoàng Minh Chính, hay Nguyễn Minh Cần. Ông chấp nhận cuộc đời ông gắn chặt với pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thế nhưng ĐCSVN bị bắt buộc phải sống còn trong cơn bão dữ Liên Xô sụp đổ, đưa đến một xã hội cộng sản lai lạp tại Việt Nam sau năm 1986. Xã hội cộng sản lai tạp đó đặt những người như ông Lộc vào tâm điểm của xáo trộn, của sự giằng co, của những mong muốn bất khả. Ông có thể cũng không muốn “học tập và làm theo” nữa, chúng ta cũng khó mà biết, nhưng một điều gần như chắc chắn rằng đảng của ông cũng chới với, không biết làm sao vào lúc đó.

Ông Lộc đã phải trả lời câu hỏi về sự mâu thuẫn khái niệm luật pháp xã hội chủ nghĩa với hiện thực Việt Nam sau năm 1986, bằng những cố gắng từ vị trí bên trong bộ máy của ông.

Từ một góc nhìn nào đó, ta có thể nói rằng, ông Lộc có thể được xếp vào thành phần đảng viên cộng sản cố gắng có những cải cách xã hội, và chính thể, từ bên trong. Cao điểm nhất của cố gắng ấy là kiến nghị 72, đề nghị đảng CSVN bỏ điều bốn Hiến pháp, tức là bác bỏ uy quyền độc tôn của Đảng.

Kiến nghị thất bại, và sau đó có tin nói rằng, ông Lộc thoái thác rằng ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa kiến nghị ấy.

Cố gắng cuối cùng của một con chim lạc bầy, muốn kéo cả bầy của mình về hướng mình cho là đúng, thất bại. Vì rằng không có chỗ cho cả bầy ấy bay đến. Trí thức phản biện Nguyễn Đình Lộc, cuối cùng không bước qua được lằn ranh “đối lập trung thành” của nhà văn Phạm Thị Hoài.

Nhưng có mấy người vượt qua được lằn ranh đó?

Những người muốn cải tổ từ bên trong của bộ máy như cố bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, theo tôi là không ít, bằng nhiều hình thức khác nhau, họ có mặt ở nhiều tầng nấc khác nhau của bộ máy, nhưng họ không đủ đông để làm nên chuyện lớn.

Tôi gặp ông Lộc một lần mà địa điểm và thời gian tôi không nhớ rõ, trong một buổi tiếp tân nào đó, có thể là Washington DC, Paris, hay cũng có thể là Hà Nội và chắc chắn là trước kiến nghị 72. Chúng tôi không nói chuyện nhiều, cũng không rõ là không có gì để nói, hay là sự giữ kẽ! Nhưng hình ảnh, vóc dáng, ánh mắt ông Nguyễn Đình Lộc, kỳ lạ thay tôi còn nhớ rất rõ. Một người Việt Nam thấp bé gầy gò (dường như ông có một khuyết tật nào đó ở đôi chân?), đôi mắt sáng, hiền lành và buồn, nhưng mà là một nỗi buồn trong trẻo.

Ông Lộc đưa tôi danh thiếp, ông nhìn tôi như một người anh em xa cách vừa gặp lại, mong muốn hàn huyên, giải thích, nhưng không biết bắt đầu từ đâu, không biết có còn nói cùng một thứ tiếng hay không!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét