Thứ Hai, 21 tháng 10, 2019

20191021. CẢNH BÁO CHO TĂNG TRƯỞNG GDP

ĐIỂM BÁO MẠNG
CẢNH BÁO CHO TĂNG TRƯỞNG GDP

VŨ MINH KHƯƠNG/ TVN 18-10-2019
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn - Ảnh: M.Chung.


Để đạt được tăng trưởng bền vững, các chính sách của Việt Nam cần đảm bảo tăng năng suất vượt, hoặc ít nhất là bằng với mức tăng tiền lương. Ưu tiên cho tăng năng suất là rất cần thiết cho sự tăng trưởng cao của Việt Nam trong vài thập kỷ qua. Vì thế, duy trì tăng năng suất là có lợi cho sản xuất, xuất khẩu, lao động, tiêu dùng trong nước cũng như toàn xã hội.
Trong vòng 5 năm qua, tăng trưởng tiền lương ở Việt Nam đã liên tục vượt qua tăng trưởng năng suất. Đây là xu hướng đáng lo ngại vì tăng trưởng GDP bền vững đòi hỏi mức tăng tiền lương phải khớp hoặc không vượt trội so với mức tăng năng suất.
Hiện nay, điều ngược lại đang xảy ra. Nếu xu hướng này không bị đảo ngược, nền kinh tế có nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh trong mối quan hệ với các nước trong khu vực và toàn cầu.
Chúng tôi hết lòng ủng hộ những lợi ích dành cho xã hội bằng cách tăng lương, nhưng mức tăng này phải phù hợp với các quy định lao động có trách nhiệm và cân bằng.
Cảnh báo cho tăng trưởng GDP
Việt Nam có thể tiếp tục tận dụng sức mạnh công nghiệp của mình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ảnh: Lê Anh Dũng
Một trong những yếu tố quan trọng mà các công ty FDI nhìn vào khi lựa chọn đầu tư vào một quốc gia là Bộ luật Lao động của quốc gia đó. Đó cũng là lý do tại sao một số quy định hiện hành và được đề xuất của Bộ Luật Lao động Việt Nam là vấn đề cần quan tâm.
Hai vấn đề trọng tâm
Ở bất kỳ quốc gia nào, Luật lao động đại diện cho một trong những yếu tố có ảnh hưởng nhất trong việc xác định tăng năng suất và tăng tiền lương. Việt Nam cũng như vậy. Bộ Luật Lao động có tác động đáng kể đến môi trường kinh doanh và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Khi so sánh với các tiêu chuẩn khu vực, một số điều khoản lao động chính của Việt Nam không cạnh tranh, đặc biệt là giới hạn về tiền làm thêm giờ, số giờ làm thêm giờ hàng năm,…
Số giờ làm thêm một năm ở Trung Quốc là 400 giờ, trong khi ở Thái Lan và Malaysia là 1.800 giờ. Hiện tại, số giờ làm thêm ở Việt Nam chỉ ở mức 200 giờ - đây là một sự khác biệt rất lớn. Giới hạn 200 giờ này là một bất lợi đáng kể cho các doanh nghiệp vì nó tước đi một bộ đệm để xử lý các cơ hội. Quy định đó cũng đặt Việt Nam vào thế bất lợi cạnh tranh so với các nước láng giềng.
Do đó, chúng tôi khuyến nghị tăng giới hạn giờ làm thêm hàng năm từ 200 đến 300 giờ đối với điều kiện làm việc bình thường và 400 giờ trong trường hợp đặc biệt hoặc trong một số ngành công nghiệp nhất định. Bên cạnh đó, cần hủy bỏ giới hạn hàng tuần và hàng tháng và loại bỏ yêu cầu đối với người sử dụng lao động cần có giấy phép chấp thuận của cơ quan lao động khi nhân viên làm việc tới 400 giờ làm thêm mỗi năm trong những trường hợp đặc biệt hoặc trong một số ngành công nghiệp.
Liên quan đến tiền công làm thêm giờ, Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực. Để so sánh, tiền công làm thêm giờ ở Philippines là 125%, trong khi tiền công làm thêm ở Việt Nam là 150% so với tiền công trong ngày làm việc bình thường, 200% trong các ngày nghỉ hàng tuần và thậm chí 300% vào các ngày nghỉ lễ. Do đó, chúng tôi đề nghị nên giữ lại hoặc thậm chí giảm tiền công lao động ngoài giờ hiện tại.
Một thập kỷ trước, tiền lương hàng tháng của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Nhìn vào tình hình hiện nay, tiền lương của Việt Nam có thể so sánh với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, giới hạn giờ làm thêm của Việt Nam vẫn thấp hơn đáng kể và tiền công làm thêm vẫn cao hơn nhiều. Kết quả của việc này là tăng trưởng tiền lương hiện đang vượt xa mức tăng năng suất. Điều này góp phần làm giảm năng suất trên mỗi đô la mà Việt Nam hiện đang phải đối mặt.
Từ góc độ khu vực, sự sụt giảm năng suất trên mỗi đô la đang gây hại cho khả năng cạnh tranh tương đối của Việt Nam cũng như sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Tất cả các yếu tố của Bộ Luật Lao động mà tôi đã đề cập cho đến nay, tiền công làm thêm giờ là vấn đề khi nhìn vào bối cảnh tăng trưởng kinh tế nói chung của Việt Nam. Xu hướng tăng trưởng tiền lương và thiếu lao động, thể hiện một mối đe dọa hiện hữu đối với năng suất và khả năng cạnh tranh của Việt Nam.
Những kiến nghị bổ sung
Tuy nhiên, đây không phải là những mối quan tâm duy nhất và để kích thích hơn nữa năng suất và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, chúng tôi cũng đề xuất những sửa đổi sau đây đối với Bộ Luật Lao động:
Thứ nhất, cung cấp các cơ chế linh hoạt hơn để chấm dứt hợp đồng lao động với nhân viên và cung cấp cơ chế thực thi tốt hơn các quy tắc ứng xử và tuân thủ tại nơi làm việc. Bộ luật Lao động hiện nay là một trong những quy định cứng nhắc và nghiêm ngặt nhất trong khu vực liên quan đến việc sa thải nhân viên.
Thứ hai, xóa bỏ các hạn chế về ủy quyền hợp đồng lao động, giữ lại các quy định trong phụ lục hợp đồng lao động như được nêu trong Bộ Luật Lao động 2012, tăng thời gian thử việc đối với các công việc cơ bản lên 15 ngày và bãi bỏ thời gian đào tạo nghề tối đa tại các doanh nghiệp.
Thứ ba, đề xuất các quy chế bổ sung cho kỷ luật lao động nhằm cung cấp cho người sử dụng lao động những căn cứ pháp lý để giải quyết tình trạng những người lao động và các nhà lãnh đạo đình công tham gia vào các cuộc đình công bất hợp pháp.
Thứ tư, tăng thời hạn giấy phép lao động cho người nước ngoài từ hai đến ba năm và không đặt giới hạn số lượng gia hạn có thể được áp dụng theo giấy phép lao động nước ngoài.
Thứ năm, hủy bỏ các điều khoản coi tổng giám đốc và giám đốc là nhân viên thường xuyên.
Cuối cùng, chúng tôi đề nghị Bộ Luật Lao động sửa đổi đưa ra các quy định phù hợp và cụ thể để giải quyết thỏa đáng hành vi quấy rối và phân biệt đối xử tại nơi làm việc, với các quy định quy định chủ lao động có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kỷ luật đối với nhân viên tham gia trong hành vi như vậy.
Những gì chúng tôi đang đề xuất không phải là một cuộc cải tổ triệt để, chúng tôi chỉ đơn giản đề xuất rằng Việt Nam áp dụng các tiêu chuẩn đã được áp dụng ở các nước khác trong khu vực. Ít nhất, Việt Nam nên tránh duy trì hoặc làm lệch bất kỳ sự khác biệt nào so với các quy tắc khu vực trong các lĩnh vực này nếu muốn duy trì lợi thế cạnh tranh của mình.
Để phù hợp với các chính sách lao động của khu vực, Việt Nam có thể tiếp tục tận dụng sức mạnh công nghiệp của mình để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam cần chuẩn hóa các khía cạnh không cạnh tranh của luật lao động theo các quy tắc khu vực, không chỉ để duy trì khả năng cạnh tranh, mà còn để giải quyết khoảng cách liên tục giữa tiền lương và tăng năng suất. Như tôi đã chỉ ra, khoảng cách này không thể được phép tiếp tục nếu Việt Nam duy trì năng suất cạnh tranh bằng đồng đô la, điều này đã thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và lợi nhuận của Việt Nam.
Cơ sở của tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 25 năm qua là năng suất cạnh tranh của lực lượng lao động và xuất khẩu. Do đó, chúng tôi rất mong Việt Nam không bỏ qua tầm quan trọng của quản lý năng suất ở cấp quốc gia để đảm bảo tăng trưởng bền vững.
Lan Anhlược ghi

CẦN MỘT BỘ MÁY CÔNG QUYỀN QUẬT KHỞI

VŨ MINH KHƯƠNG/ BVN 19-10-2019
Toàn tâm toàn ý xây dựng một bộ máy công quyền ưu tú không khó, nếu coi đó là vấn đề sống còn của đất nước, của hệ thống chính trị, của bộ máy lãnh đạo. Nhưng việc yêu cầu chứng chỉ này nọ lại đi vào thủ tục chứ không tạo ra sự thay đổi nền tảng cho hệ thống, theo PGS.TS Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu.
Chứng chỉ không làm cho công chức có động lực làm việc
Để chuẩn hóa khu vực công, hiện nay Chính phủ đã đề ra nhiều yêu cầu về năng lực dưới dạng bằng cấp, chứng chỉ, nhưng trên thực tế nảy sinh tiêu cực, đối phó thay vì chuẩn hóa. Singapore nổi tiếng có một bộ máy công quyền chất lượng. Với tư cách là người đã từng làm việc trong khu vực công ở Việt Nam, hiện nay đang sinh sống ở Singapore và giảng dạy tại trường Chính sách công Lý Quang Diệu, ông thấy đâu là điểm chưa phù hợp trong chính sách tuyển dụng nhân lực cho khu vực công ở Việt Nam, khiến kết quả chưa được như mong muốn.
PGS.TS Vũ Minh Khương: Việt Nam đã và đang tiến hành cải cách ngày càng mạnh mẽ. Nỗ lực cải cách có thể chia làm hai giai đoạn: Đổi mới 1986 (từ 1986 đến 2015) và Đổi mới tiếp theo (từ 2016 đến 2045). Hai cuộc đổi mới này tuy cùng chung một đặc trưng là sự đổi mới về tư duy, chúng có sự khác biệt lớn về chất và tầm chiến lược.
Trong Đổi mới 1986, bí quyết lớn nhất của cải cách là tìm ra và khơi dậy bàn tay vô hình của thị trường. Chính bàn tay vô hình này đã tạo nên sự hứng khởi và nỗ lực sống động của người dân và doanh nghiệp. Chính đây là động lực căn bản đã làm nên thành công của Đổi mới. Nó tạo thế và lực cho Việt Nam bước vào giai đoạn tiếp theo 2016-2045 với sự tự tin và khát vọng lớn hơn rất nhiều so với lúc khởi đầu Đổi mới 1986.
Đổi mới 2016 đến 2045 sẽ là công cuộc cải cách có sứ mệnh đưa Việt Nam đến vị thế hùng cường khi đất nước kỷ niệm 100 năm độc lập. Bí quyết để Đổi mới 2016 - 2045 thành công sẽ là tìm ra được một bàn tay vô hình thúc đẩy nền kinh tế hoạt động mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa. Bàn tay vô hình này tuy nhiên không còn nằm ở thị trường mà ở thể chế. Tìm ra và kích hoạt bàn tay vô hình trong thể chế này sẽ đem lại sức mạnh quật khởi cho bộ máy công quyền.
Khi đó, người cán bộ công chức, cũng như người nông dân trên ruộng đồng và người doanh nhân trên thị trường, sẽ dốc hết sức mình, sống động và nhạy bén, trong mọi công việc,
Đảng và Chính phủ đã thấy rõ tầm quan trọng phải có một bộ máy công quyền ưu tú, nhưng phương thức cải cách chưa đi vào cốt lõi mà vẫn sa vào cải tiến qui trình, thủ tục. Yêu cầu chứng chỉ này khác để chuẩn hóa cán bộ cũng không có ý nghĩa gì nếu công chức không có động lực làm việc. Ba động lực lớn tạo nên bàn tay vô hình là lợi ích thỏa đáng, niềm tin mãnh liệt vào sứ mệnh đưa đất nước đến tương lai hùng cường, và hệ thống yểm trợ, giám sát minh bạch và có hiệu năng cao.

Cần một bộ máy công quyền quật khởi
"Nếu toàn tâm toàn ý xây dựng một bộ máy công quyền ưu tú không khó, nhưng phải coi đó là vấn đề sống còn của đất nước, của hệ thống chính trị, của bộ máy lãnh đạo" - PGSTS Vũ Minh Khương.
Vậy làm sao để có được động lực cho họ làm việc? Trong những năm qua, Đảng, Chính phủ có vẻ đã đưa ra nhiều “cây gậy” dưới dạng văn bản, quy chế, kiểm tra, đánh giá, thậm chí cả tòa án... nhưng xem ra chưa thực sự có uy lực. Phải chăng vì thiếu “củ cà rốt”, tức là động lực cho hệ thống?
Khi nói đến bàn tay vô hình, nó có 3 thứ: lợi ích, niềm tin và cảm hứng của đồng đội khiến người ta cảm thấy được yểm trợ, thấy là cùng nhau làm tiến lên, tốt đẹp lên. Nhảy ngay vào quy trình là một sai lầm rất lớn. Cần phải bắt đầu từ khâu thiết kế chiến lược chứ không phải bằng sửa đổi chắp và một vài qui định.
Ví dụ ngoại ngữ, không cần chứng chỉ gì cả, thời kỳ 4.0 rồi, có thể tải ngay một bài báo, bài nghiên cứu trên internet, anh đọc, dịch cho tôi; một video trên youtube anh nghe, trình bày lại... Chỉ cần 3 mức thôi, không cần hệ thống chứng chỉ quy đổi dài dằng dặc làm gì.
Thực sự, nếu toàn tâm toàn ý xây dựng một bộ máy công quyền ưu tú không khó, nhưng phải coi đó là vấn đề sống còn của đất nước, của hệ thống chính trị, của bộ máy lãnh đạo.
Tính chính danh của hệ thống chính trị sẽ giảm sút và mất đi nếu nó không đủ khả năng thiết lập và vận hành được một bộ máy công quyền ưu tú. Chính phủ phải là những người cháy bỏng khát vọng dân tộc, đau đáu trách nhiệm với người dân, và quả cảm đứng đầu trong dòng chảy thời đại.
Làm sao để chọn được những người ưu tú như ông nói, trong khi trên thực tế hệ thống của Việt Nam đang có sự chọn lọc ngược - người tài rời đi vì có nhiều cơ hội tốt hơn?
Tìm người ưu tú không nên bắt đầu từ kiểm tra lý lịch bằng cấp mà hãy nghe họ trình bày phương cách họ có thể tạo nên giá trị lớn khi nhận trách nhiệm được giao. Tài năng của một cá nhân được đo bằng giá trị họ sẽ giúp một tổ chức tạo thêm chứ không phải bằng những thành tích từ quá khứ. Giá trị càng lớn, người đó càng tài.
Điều này cũng có nghĩa là, tổ chức tiếp nhận người đó và thời cơ cũng là những yếu tố giúp tài năng của anh ta phát lộ. Theo cách định nghĩa này, huấn luyện viên bóng đá Park Hang Seo quả là một người rất tài, mặc dù về bằng cấp, chứng chỉ, ông có lẽ chỉ ở mức trung bình. Ông ấy đã tạo ra những giá trị vượt bậc cho bóng đá Việt Nam, làm cho các cầu thủ chói sáng lên về cả kỹ năng và tinh thần dân tộc. Điều đáng quí nhất là lòng tin đã được lấy lại.
Có lẽ giờ đây, người dân Việt Nam không bao giờ còn nghĩ đến khả năng cầu thủ của đội tuyển bán độ như họ thường nghĩ trước đây.
Nhiều người nói công cuộc cải cách của Việt Nam đang bế tắc vì lương thưởng không xứng đáng nên không tạo động lực cho người ta làm việc. Các đòi hỏi ngày càng cao lên (bằng cấp, chứng chỉ, thái độ...) nhưng thu nhập không cao chắc chắn sẽ khiến họ bỏ đi?
Cái đó hoàn toàn đúng, nhưng thu nhập thật có thực sự thấp không? Lợi ích là yếu tố không thể thiếu, nhưng sức mạnh của nó nằm rất nhiều ở tính chính đáng chứ không ở số lượng. Người xuất sắc phải được tưởng thưởng. Làm sao để người cán bộ có nhà có xe từ nỗ lực chân chính của mình và họ có thể hãnh diện về điều đó.
Ví dụ trong đầu tư công. Nếu cán bộ đóng góp xuất sắc trước sự kính nể của người dân về chất lượng và tiến độ tuyệt vời của công trình thì họ xứng đáng được thưởng 1-10% giá trị dự án. Hiện nay, nhiều dự án cũng phải chi trả giá trị này, thậm chí nhiều hơn, nhưng đi trong bóng tối, để vào túi người có quyền chức.
Nghĩa là, chìa khóa quan trọng nhất của mọi nỗ lực cải cách là sự minh bạch. Đó là vấn đề đầu tiên. Chính quyền phải chấp nhận bày tất cả ra và để con mắt thần của người dân giám sát. Còn trong bóng tối thì tài thánh cũng chịu. Thông tin không chuẩn thì anh xuất sắc đến đâu cũng không bắt trúng được.
Như ông nói, cuộc tìm kiếm bàn tay vô hình lần 2 cần minh bạch, niềm tin và cảm hứng từ đồng đội. Nhưng tôi cảm thấy hiện nay khu vực công thiếu cả 3 yếu tố này, đặc biệt là niềm tin. Vậy phải bắt đầu như thế nào để gây dựng? 
PGS.TS Vũ Minh Khương: Chúng ta thiếu nhiều về lòng tin (trust) chứ không phải niềm tin (belief). Chúng ta đã mất lòng tin vào nhiều việc cụ thể; nhưng niềm tin thì vẫn canh cánh, tin là dân tộc này không thể đói nghèo, không thể tầm thường mãi được.
Chúng ta có vấn đề với “trust”, chuyện đó tôi công nhận. Đó sẽ là cản trở rất lớn, đặc biệt trong xây dựng bộ máy hệ thống công quyền ưu tú. Nhưng niềm tin dân tộc vẫn có, mọi người vẫn tin một ngày nào đó đất nước này sẽ ngẩng đầu. 
Điều đáng đặt ra, phải hiểu chúng ta mất đi lòng tin vào người cán bộ. Theo tôi, cái gốc là từ thiếu minh bạch. Nếu không có ánh sáng mặt trời, tôi luôn phải giả định xấu: trên đường có ma tà, có rắn rết. Đó là bản năng của con người. Còn nếu dưới thanh thiên, mọi thứ đều rõ ràng, ta không thể giả định xấu được.
Trong môi trường chưa lành mạnh, chưa sáng rõ, chúng ta cũng nên biết đến hiệu ứng con gián. Nếu nhìn thấy chỗ này có một con gián thì người ta sẽ nghĩ rằng có rất nhiều gián. Mà cũng đúng thôi. Không thể có một con gián đơn lẻ được. Cái gì đó, môi trường đã tạo nên một con gián thì cũng sẽ dung dưỡng ra nhiều con gián như thế.
'Phải bật sáng đèn lên!”
Ảnh: TL
Nếu bạn nhìn thấy trong cơ quan mình những người vào hệ thống bằng cách không minh bạch thì bạn sẽ nghĩ có rất nhiều người khác như vậy. Bạn bắt đầu bằng cách dọn dẹp các ngóc ngách, để mọi thứ sạch sẽ, sáng tỏ lên, thì lòng tin và cảm hứng sẽ trở lại.
Theo ông, với bộ máy hiện có của Việt Nam, nếu bắt tay vào sửa, sẽ phải sửa từ đâu?
Phải bắt đầu từ những thách thức, chứ không thể đập tất cả ra sửa ngay một lúc. Nếu chúng ta bắt đầu từ việc phải tăng lương cho cả hệ thống hơn 2 triệu công chức, viên chức để tăng động lực, rồi thế thì ngân sách lấy ở đâu... thì sẽ lạc trong mê cung mà ta giăng ra.
Cũng giống như thời chiến tranh giải phóng. Chúng ta không thể cùng một lúc trang bị vũ khí và hỏa lực tốt cho mọi cánh quân. Thế nhưng, chúng ta có thể tập trung cho những mặt trận chính yếu, có tính quyết chiến chiến lược.
Ví dụ, vấn đề hiện nay là giải ngân đầu tư công quá chậm, trì kéo cả tăng trưởng của đất nước, thì nỗ lực cải cách tập trung đột phá để giải ngay bài toán đó. Chúng ta lập nên một trang web của chính phủ theo dõi tất cả các dự án đầu tư công và PPP. Ai chịu trách nhiệm, ai là người tham gia, tiến độ và chất lượng công trình được cập nhận định kỳ.
Khi có vướng mắc, ủy ban giám sát thúc đẩy đầu tư công có quyết sách ngay. Nếu luật chưa phù hợp mà thấy có lợi cho nền kinh tế, lòng tin của dân, và nền tảng cho công cuộc phát triển thì kiến nghị giải quyết ngay, qua mạng. Quốc hội không phải chờ đến xuân thu nhị kỳ mới họp. Phải đánh tổng lực thì Việt Nam mới tiến nhanh được.
Tương tự như vậy, cải cách tập trung vào giải quyết các bài toán khó sẽ có sức lan tỏa rất sâu rộng, cả về niềm tin và tầm nhìn. Chẳng hạn, để giảm việc các doanh nghiệp bị thanh tra quá nhiều; chính phủ có thể ra quyết định yêu cầu mọi cuộc thanh tra, dù ở cấp nào, đều phải đăng ký qua trang mạng của chính phủ, nêu rõ các nội dung, bao gồm trưởng đoàn thanh tra, nội dung thanh tra, thời gian thanh tra, và kết quả thu được.
Khi mọi việc sáng như ban ngày, việc xấu sẽ giảm đến 99%. 
Làm sao để mỗi công chức xông xáo như nông dân trên ruộng đồng
Vậy ý tưởng của ông về “một bộ máy chính quyền mà dân tộc này xứng đáng” là như thế nào? Liệu Việt Nam có thể học tập một mô hình như Singapore?
Singapore có rất nhiều thứ đáng học, nhưng chúng ta đương nhiên là không thể bê nguyên mô hình nào cả. Có một kinh nghiệm hay mà tôi nghĩ chúng ta nên tham khảo trong nỗ lực xây dựng bộ máy công quyền ưu tú. Đó là, vào những năm 1981, ông Lý Quang Diệu thấy bộ máy hoạt động chồng chéo thiếu sự gắn kết và tính tổng lực, ông cho đặt một nhóm chuyên gia “khám bệnh” toàn bộ máy, đâu là chỗ vướng mắc, đâu là cấu trúc cần cải tổ để tạo nên sức mạnh vượt bậc.
Các chuyên gia thoải mái tìm hiểu, phỏng vấn những người trong bộ máy để lập nên báo cáo đó, nhưng hệ thống không nhất thiết phải theo, vì đó chỉ là báo cáo của giới học thuật.
Sau khi có báo cáo, Lý Quang Diệu đưa cho các bộ nghiên cứu, tranh luận thẳng thắn, cái gì khả thi trong bối cảnh này, cái gì không, cái gì cần hiệu chỉnh. Với những thứ khẳng định khả thi, thì phải áp dụng và có thước đo thành quả ngay lập tức.
Nếu chúng ta tham khảo kinh nghiệm này, chúng ta có thể có một nền tảng tinh hoa của cả thế giới về xây dựng bộ máy công quyền ưu tú cho Việt Nam. Nó có thể được dùng như một bộ từ điển, để Đảng, Quốc hội, Chính phủ, báo chí, và công luận soi vào, đối sánh.
Chúng ta có thể không áp dụng ngay được tất cả, nhưng những gì làm được thì làm luôn. Tôi không muốn phê phán những gì đồng nghiệp mình đang làm, nhưng rõ ràng phải có ánh sáng mặt trời chiếu rọi, có một tầm nhìn để dân tộc Việt Nam phải có một bộ máy xứng đáng.
Làm sao để mỗi công chức xông xáo giống như người nông dân ra ruộng đồng, như doanh nghiệp ra thị trường. Đó là cuộc cải cách lần thứ 2 mà tôi mong đợi.
Phải mất bao lâu để hoàn thành một bộ từ điển như vậy?
Cần từ 6 đến 9 tháng và một quyết tâm chính trị rất cao. Chúng ta hiện chưa coi trọng thiết kế chiến lược và vẫn thiên lệch nhiều vào dự án hoặc qui trình cụ thể. Chúng ta cần nhận thức rõ là Đổi mới II, đặc biệt coi trọng thiết kế chiến lược vì nó không phải chỉ là quyết tâm “cởi trói, phá rào” như ở Đổi mới I.
Đổi mới I thì ta mới chỉ thức dậy ở tư duy thôi, tức là bằng người ta; Đổi mới II là trỗi dậy về tầm nhìn, tức là muốn đi thật xa, đi đầu trong dòng chảy thời đại. Tôi thấy lãnh đạo đất nước đã ý thức được việc đó. Chúng ta giờ đây không ngại ngùng khi nói rằng Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia hùng cường vào năm 2045, nghĩa là chưa đến 3 thập kỷ nữa.
Con thuyền vẫn đi đúng hướng, nhưng phải giải quyết được bàn tay vô hình, để cả đội cùng đá hết sức. Phải có phản biện, chinh phục được người dân và muốn thế phải có chất xám của hiền tài. Cần thời gian lắng nghe, chất vấn nhau để giải những bài toán khó khăn nhất. Tôi hy vọng, sẽ đến ngày nhiều nước sẽ lũ lượt đến Việt Nam học cách phát triển.
Hiện nay Đảng đang xây dựng văn kiện cho Đại hội mới cho một thời kỳ mới. Chúng ta ai cùng khát khao được đóng góp. Nếu chúng ta có thể bàn về một thiết kế cho tương lai, thì đây chính là lúc cần làm.
Xin cảm ơn ông!
Vũ Hân thực hiện

PHẢI BẬT SÁNG ĐÈN LÊN

VŨ MINH KHƯƠNG/ TVN 20-10-2019

 - "Hiện nay Đảng đang xây dựng văn kiện cho Đại hội mới cho một thời kỳ mới. Chúng ta ai cũng khát khao được đóng góp".  Tuần Việt Nam giới thiệu phần 2 cuộc đối thoại với PGS.TS Vũ Minh Khương.


Như ông nói, cuộc tìm kiếm bàn tay vô hình lần 2 cần minh bạch, niềm tin và cảm hứng từ đồng đội. Nhưng tôi cảm thấy hiện nay khu vực công thiếu cả 3 yếu tố này, đặc biệt là niềm tin. Vậy phải bắt đầu như thế nào để gây dựng? 
PGS.TS Vũ Minh Khương: Chúng ta thiếu nhiều về lòng tin (trust) chứ không phải niềm tin (belief). Chúng ta đã mất lòng tin vào nhiều việc cụ thể; nhưng niềm tin thì vẫn canh cánh, tin là dân tộc này không thể đói nghèo, không thể tầm thường mãi được.
Chúng ta có vấn đề với “trust”, chuyện đó tôi công nhận. Đó sẽ là cản trở rất lớn, đặc biệt trong xây dựng bộ máy hệ thống công quyền ưu tú. Nhưng niềm tin dân tộc vẫn có, mọi người vẫn tin một ngày nào đó đất nước này sẽ ngẩng đầu. 
Điều đáng đặt ra, phải hiểu chúng ta mất đi lòng tin vào người cán bộ. Theo tôi, cái gốc là từ thiếu minh bạch. Nếu không có ánh sáng mặt trời, tôi luôn phải giả định xấu: trên đường có ma tà, có rắn rết. Đó là bản năng của con người. Còn nếu dưới thanh thiên, mọi thứ đều rõ ràng, ta không thể giả định xấu được.
Trong môi trường chưa lành mạnh, chưa sáng rõ, chúng ta cũng nên biết đến hiệu ứng con gián. Nếu nhìn thấy chỗ này có một con gián thì người ta sẽ nghĩ rằng có rất nhiều gián. Mà cũng đúng thôi. Không thể có một con gián đơn lẻ được. Cái gì đó, môi trường đã tạo nên một con gián thì cũng sẽ dung dưỡng ra nhiều con gián như thế.
'Phải bật sáng đèn lên!”
Ảnh: TL
Nếu bạn nhìn thấy trong cơ quan mình những người vào hệ thống bằng cách không minh bạch thì bạn sẽ nghĩ có rất nhiều người khác như vậy. Bạn bắt đầu bằng cách dọn dẹp các ngóc ngách, để mọi thứ sạch sẽ, sáng tỏ lên, thì lòng tin và cảm hứng sẽ trở lại.
Theo ông, với bộ máy hiện có của Việt Nam, nếu bắt tay vào sửa, sẽ phải sửa từ đâu?
Phải bắt đầu từ những thách thức, chứ không thể đập tất cả ra sửa ngay một lúc. Nếu chúng ta bắt đầu từ việc phải tăng lương cho cả hệ thống hơn 2 triệu công chức, viên chức để tăng động lực, rồi thế thì ngân sách lấy ở đâu... thì sẽ lạc trong mê cung mà ta giăng ra.
Cũng giống như thời chiến tranh giải phóng. Chúng ta không thể cùng một lúc trang bị vũ khí và hỏa lực tốt cho mọi cánh quân. Thế nhưng, chúng ta có thể tập trung cho những mặt trận chính yếu, có tính quyết chiến chiến lược.
Ví dụ, vấn đề hiện nay là giải ngân đầu tư công quá chậm, trì kéo cả tăng trưởng của đất nước, thì nỗ lực cải cách tập trung đột phá để giải ngay bài toán đó. Chúng ta lập nên một trang web của chính phủ theo dõi tất cả các dự án đầu tư công và PPP. Ai chịu trách nhiệm, ai là người tham gia, tiến độ và chất lượng công trình được cập nhận định kỳ.
Khi có vướng mắc, ủy ban giám sát thúc đẩy đầu tư công có quyết sách ngay. Nếu luật chưa phù hợp mà thấy có lợi cho nền kinh tế, lòng tin của dân, và nền tảng cho công cuộc phát triển thì kiến nghị giải quyết ngay, qua mạng. Quốc hội không phải chờ đến xuân thu nhị kỳ mới họp. Phải đánh tổng lực thì Việt Nam mới tiến nhanh được.
Tương tự như vậy, cải cách tập trung vào giải quyết các bài toán khó sẽ có sức lan tỏa rất sâu rộng, cả về niềm tin và tầm nhìn. Chẳng hạn, để giảm việc các doanh nghiệp bị thanh tra quá nhiều; chính phủ có thể ra quyết định yêu cầu mọi cuộc thanh tra, dù ở cấp nào, đều phải đăng ký qua trang mạng của chính phủ, nêu rõ các nội dung, bao gồm trưởng đoàn thanh tra, nội dung thanh tra, thời gian thanh tra, và kết quả thu được.
Khi mọi việc sáng như ban ngày, việc xấu sẽ giảm đến 99%. 
Làm sao để mỗi công chức xông xáo như nông dân trên ruộng đồng
Vậy ý tưởng của ông về “một bộ máy chính quyền mà dân tộc này xứng đáng” là như thế nào? Liệu Việt Nam có thể học tập một mô hình như Singapore?
Singapore có rất nhiều thứ đáng học, nhưng chúng ta đương nhiên là không thể bê nguyên mô hình nào cả. Có một kinh nghiệm hay mà tôi nghĩ chúng ta nên tham khảo trong nỗ lực xây dựng bộ máy công quyền ưu tú. Đó là, vào những năm 1981, ông Lý Quang Diệu thấy bộ máy hoạt động chồng chéo thiếu sự gắn kết và tính tổng lực, ông cho đặt một nhóm chuyên gia “khám bệnh” toàn bộ máy, đâu là chỗ vướng mắc, đâu là cấu trúc cần cải tổ để tạo nên sức mạnh vượt bậc.
Các chuyên gia thoải mái tìm hiểu, phỏng vấn những người trong bộ máy để lập nên báo cáo đó, nhưng hệ thống không nhất thiết phải theo, vì đó chỉ là báo cáo của giới học thuật.
Sau khi có báo cáo, Lý Quang Diệu đưa cho các bộ nghiên cứu, tranh luận thẳng thắn, cái gì khả thi trong bối cảnh này, cái gì không, cái gì cần hiệu chỉnh. Với những thứ khẳng định khả thi, thì phải áp dụng và có thước đo thành quả ngay lập tức.
Nếu chúng ta tham khảo kinh nghiệm này, chúng ta có thể có một nền tảng tinh hoa của cả thế giới về xây dựng bộ máy công quyền ưu tú cho Việt Nam. Nó có thể được dùng như một bộ từ điển, để Đảng, Quốc hội, Chính phủ, báo chí, và công luận soi vào, đối sánh.
Chúng ta có thể không áp dụng ngay được tất cả, nhưng những gì làm được thì làm luôn. Tôi không muốn phê phán những gì đồng nghiệp mình đang làm, nhưng rõ ràng phải có ánh sáng mặt trời chiếu rọi, có một tầm nhìn để dân tộc Việt Nam phải có một bộ máy xứng đáng.
Làm sao để mỗi công chức xông xáo giống như người nông dân ra ruộng đồng, như doanh nghiệp ra thị trường. Đó là cuộc cải cách lần thứ 2 mà tôi mong đợi.
Phải mất bao lâu để hoàn thành một bộ từ điển như vậy?
Cần từ 6 đến 9 tháng và một quyết tâm chính trị rất cao. Chúng ta hiện chưa coi trọng thiết kế chiến lược và vẫn thiên lệch nhiều vào dự án hoặc qui trình cụ thể. Chúng ta cần nhận thức rõ là Đổi mới II, đặc biệt coi trọng thiết kế chiến lược vì nó không phải chỉ là quyết tâm “cởi trói, phá rào” như ở Đổi mới I.
Đổi mới I thì ta mới chỉ thức dậy ở tư duy thôi, tức là bằng người ta; Đổi mới II là trỗi dậy về tầm nhìn, tức là muốn đi thật xa, đi đầu trong dòng chảy thời đại. Tôi thấy lãnh đạo đất nước đã ý thức được việc đó. Chúng ta giờ đây không ngại ngùng khi nói rằng Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia hùng cường vào năm 2045, nghĩa là chưa đến 3 thập kỷ nữa.
Con thuyền vẫn đi đúng hướng, nhưng phải giải quyết được bàn tay vô hình, để cả đội cùng đá hết sức. Phải có phản biện, chinh phục được người dân và muốn thế phải có chất xám của hiền tài. Cần thời gian lắng nghe, chất vấn nhau để giải những bài toán khó khăn nhất. Tôi hy vọng, sẽ đến ngày nhiều nước sẽ lũ lượt đến Việt Nam học cách phát triển.
Hiện nay Đảng đang xây dựng văn kiện cho Đại hội mới cho một thời kỳ mới. Chúng ta ai cùng khát khao được đóng góp. Nếu chúng ta có thể bàn về một thiết kế cho tương lai, thì đây chính là lúc cần làm.
Xin cảm ơn ông!
Vũ Hânthực hiện

GDP VÀ 'CƠ HỘI VÀNG' ĐỂ THAY ĐỔI CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
MẠNH CHUNG / VN E 19-10-2019
ng trưởng GDP của Việt Nam mới chỉ là đầu ra để so sánh mức thu nhập đạt được chứ chưa tính đến chi phí bỏ ra để đạt được kết quả tăng trưởng đó, như chi phí xã hội, chi phí môi trường… Nếu tính tất cả các chi phí như vậy vào có thể sẽ làm sụt giảm tăng trưởng đi rất nhiều.
Đưa ra góc nhìn trên trong câu chuyện "Cà phê cuối tuần" với VnEconomy, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn hơn một lần nhấn mạnh Việt Nam nên đặt ra mục tiêu xây dựng chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó có nội dung quan trọng là GDP xanh và cho rằng bối cảnh hiện nay đang là "cơ hội vàng" để Việt Nam thay đổi chất lượng tăng trưởng.
Hai luồng suy nghĩ
Thời gian qua Việt Nam đạt được những kết quả tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng mà gần đây nhất tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2019 đạt 6,98%, cao nhất 9 năm qua. Cá nhân ông cảm nhận thế nào, hẳn sẽ rất vui?
Thì cứ thấy tăng trưởng cao, phát triển tốt là vui rồi, nhưng đó là cảm nhận của một công dân. Còn cảm nhận của nhà kinh tế thì có hai luồng suy nghĩ đan xen. Đó là những nỗ lực của Chính phủ, doanh nghiệp, người dân đã có những kết quả đáng ghi nhận, và thứ hai, tôi vẫn luôn suy nghĩ nhiều về chất lượng của tăng trưởng hơn là số lượng.
Ông có thể nói cụ thể hơn được không?
Số lượng (con số tăng trưởng cao) là cho giai đoạn nào đó và sẽ theo quy luật kinh tế. Một nền kinh tế càng lớn thì tốc độ tăng trưởng cao sẽ khó giữ nguyên được, nó sẽ dần dần giảm tốc. Vấn đề khi nào giảm và giảm với mức độ như thế nào, chứ không thể kỳ vọng luôn luôn tăng cao được.
Thứ hai, tăng trưởng luôn đặt ra vấn đề của chất lượng tăng trưởng. Đó là có dựa vào nguồn lực chắc chắn không, có thể giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định, lâu dài không. Còn tăng trưởng chỉ dựa vào đầu tư, nguồn lực có sẵn hoặc dễ dàng khai thác, huy động, thì khi nào hết nguồn lực đấy sẽ không còn tốc độ tăng trưởng cao được nữa.
Trong khi mô hình tăng trưởng cũ của ta dựa quá nhiều vào tài nguyên, vốn, nhưng phần đại diện cho lực lượng khoa học công nghệ đóng góp cho tăng trưởng vẫn không cao. Do vậy phải suy nghĩ nhiều hơn về nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực khoa học công nghệ.
Còn nói về con số tăng trưởng thì của ta cũng chưa thực sự cao. Hồi xưa, phát triển thần kỳ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan toàn mức 8,6-9,2%. Kể cả Trung Quốc, nước lớn như thế nhưng cứ liên tục tăng trưởng hơn 10%. Mình mới tăng trưởng cao nhất khoảng gần 8%, còn lại 7,5%, tất nhiên như thế cũng quý rồi. Bây giờ cứ cố 6,9-7% là mừng lắm.
Cơ cấu kinh tế: Vẫn loay hoay phần đáy nụ cười!
Một chi tiết đáng chú ý liên quan đến con số tăng trưởng cao nhất của 9 tháng trong 9 năm qua. Cụ thể, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,36%, đóng góp 52,6%, khu vực dịch vụ tăng 6,85%, đóng góp 42,6%. Với sự tăng trưởng trên cho thấy các khu vực này đang có sự chuyển biến nhanh và làm trụ cột của nền kinh tế, điều đó cũng cho thấy cơ cấu kinh tế cũng đang có sự chuyển dịch rất tích cực. Quan điểm của ông thì sao?
Trước nay chúng ta vẫn dựa vào hai khu vực này là chính. Nông nghiệp đóng góp cho tăng trưởng bao giờ cũng thấp nhất. Năm vừa rồi tăng trưởng nông nghiệp trên 3% cũng là tốt nhưng năm nay không biết vì có dịch tả lợn châu Phi nên có thể có ảnh hưởng.
Bởi vậy, xu hướng tăng trưởng của khu vực công nghiệp xây dựng cao và đóng góp ngày càng nhiều hơn cho tăng trưởng (GDP) là tốt, nhưng đây là khu vực không có gì thay thế và cũng dễ nhìn thấy. Vấn đề hiện nay là phải nhìn sâu hơn đằng sau các con số đó.
Ví dụ công nghiệp và xây dựng tăng trưởng thế nhưng chúng ta tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu được nhiều hay ít? Giá trị gia tăng để lại cho Việt Nam nhiều hay ít? Chứ con số GDP hay giá trị tạo ra ở khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ đó thì đấy là chung cả khu vực nước ngoài và trong nước.
Khu vực FDI họ làm ra và mang về nước họ mình có thu được đâu. Trong khi khu vực FDI hoạt động hiệu quả hơn, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, được ưu ái nhiều hơn, nhưng đóng góp cho ngân sách nhà nước lại ít hơn khu vực tư nhân, còn khu vực tư nhân thì không hiệu quả bằng, khó khăn nhiều hơn, số lượng đóng cửa vẫn rất cao nhưng đóng góp lại nhiều hơn FDI, như thế phải xem lại.
Nếu tính toán cẩn thận tôi cho rằng phần mình được không bao nhiêu. Vì ta tham gia vào chuỗi giá trị trong công nghiệp chủ yếu lắp ráp, gia công, mà từ lâu ai cũng biết phần chúng ta được chủ yếu chi cho lao động nhưng lao động ở đây là nhân công giá rẻ. Chúng ta cần phải đi vào hai cánh của chuỗi nụ cười giá trị gia tăng, là về thiết kế, và một bên là makerting, bán hàng, phân phối thì mới có giá trị nhiều hơn. Chứ ta cứ loay hoay ở phần đáy của nụ cười thì không thu được bao nhiêu cả.

20191009_101139(0)

Đành rằng thế, nhưng trước đây ta chủ yếu lệ thuộc vào khai khoáng, dầu khí, khai thác khoáng sản,… thì sự thay đổi trên cũng là tốt đấy chứ?
Chúng ta đã nhận ra không thể nào tập trung vào tài nguyên được, vì tài nguyên cũng sẽ cạn kiệt, ô nhiễm, và nếu là tăng trưởng bền vững thì không thể dựa vào tài nguyên, cho nên đóng góp của tài nguyên, đặc biệt là dầu khí cho ngân sách giờ dưới 5%, đâu phải dựa vào tài nguyên.
Vấn đề của chúng ta là bắt nhịp sâu vào vào nền kinh tế thế giới, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đặt mục tiêu thế nhưng chúng ta hiện không làm được, bởi rất nhiều lý do, trong đó có lý do quan trọng là công nghiệp hỗ trợ phát triển vẫn còn rất hạn chế.
Thế nên, con số đưa ra chúng tôi vẫn cho là tốt, vẫn đánh giá tích cực nhưng phải nhìn đằng sau nó để tiếp tục khắc phục chứ không phải cứ nhìn thấy số năm nay tốt hơn năm sau hay mức độ tương tối cao là đã phấn khởi.
Chuyển dịch thế nào cho hợp lý?
Vậy theo chủ quan của ông, cơ cấu kinh tế cần chuyển dịch theo xu hướng như thế nào mới tạo ra sự ổn định, bền vững hay thể hiện được chiều sâu của tăng trưởng?
Cơ cấu thì phải mổ xẻ kỹ hơn. Ví dụ trong công nghiệp cần mổ xẻ cơ cấu ngành công nghiệp nào chúng ta có lợi thế và có thể bắt kịp. Như hiện nay chúng ta tận dụng cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big data), Blockchain…, đấy là khu vực sẽ tạo ra giá trị gia tăng rất cao, do vậy giờ phải nhắm vào đó, kinh tế số sẽ phải đầu tư vào nhiều hơn, khoa học công nghệ, công nghệ thông tin, rồi nguồn lực để phục vụ, chúng ta phải đi sâu vào.
Tất nhiên nó cũng là công nghiệp, có thể là dịch vụ, nhưng là phần mà chúng ta mong muốn.
Còn công nghiệp như sản xuất dệt may, sản phẩm gọi là truyền thống, đến một lúc nào đó cũng tới ngưỡng, không thể nào tiếp tục đi may cho toàn thế giới được. Kể cả trong lĩnh vực may người ta cũng không làm theo kiểu cũ mà dùng robot rồi. Máy được lập trình làm ra những sản phẩm theo yêu cầu, làm việc 24/24, không đòi tăng lương, không điều kiện lao động gì cả, năng suất lại rất cao và làm theo nhu cầu của đơn đặt hàng, mỗi một người có thể được cung cấp những sản phẩm theo đơn hàng của cá nhân.
Cách làm xưa là cứ sản xuất đại trà hàng nghìn chiếc áo sơ mi ra thị trường rồi ai mua thì mua. Bây giờ theo đơn đặt hàng, dự báo theo nhu cầu rồi đưa vào sản xuất. Như thế không cần đặt nhà máy may ở một quốc gia có lao động giá rẻ, mà họ mang về bản địa sản xuất.
Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu thật kỹ lĩnh vực nào có thể tham gia được, lĩnh vực nào thậm chí mình có thể đuổi kịp và vượt các nước ở trong khu vực, bởi nhiều lĩnh vực họ cũng như mình, cũng mới bắt đầu khởi động từ cách mạng công nghiệp 4.0, đặt cho tất cả các nước trong khu vực ở các nấc thang khác nhau về phát triển, trong một mặt chung và khởi điểm chung để chạy thi.
Hay, trong cơ cấu công nghiệp đang nói ở trên thì cũng phải xác định cụ thể cái gì hiện ta đang có lợi thế, cái gì nên tập trung để có thể bứt phá, để đuổi kịp và vượt, đấy mới là quan trọng. Bản thân con số là tốt, cho thấy cơ cấu chuyển đổi, nhưng cái mà chúng ta mong muốn là phải chuyển đổi nhanh hơn, chuyển đổi cụ thể hơn vào lĩnh vực mà ta có lợi thế và nếu biết tận dụng thì có thể đuổi kịp và vượt.
Phải đặt vấn đề như thế thì mới ra được chiến lược lâu dài, động cơ cho tăng trưởng mới đảm bảo được đúng và bền vững.
Cần đặt mục tiêu kinh tế xanh, GDP xanh
Những đánh giá, góc nhìn, hay lo lắng của ông ở trên mang tính căn cơ, lâu dài, chứ thực tế khi thông tin tốc độ tăng trưởng GDP quý 3/2019 của Việt Nam được công bố ngay lập tức đã có những hiệu ứng tích cực khi nhiều tổ chức, định chế tài chính quốc tế đã nâng nâng dự báo tăng trưởng cả năm của Việt Nam?
Có thể họ có các kịch bản khác nhau, mặc dù tất cả dự báo kinh tế họ lại thấy bi quan, như tăng trưởng ở các nước lớn, tăng trưởng ở khu vực, kể cả Trung Quốc đều bi quan và đánh tụt. Ví dụ như IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế) hai báo cáo đầu năm của tháng 1 và tháng 4 đều điều chỉnh thấp xuống, tăng trưởng của các nước trong khối phát triển, đang phát triển, mới nổi đều bị đánh tụt cả.
Bức tranh chung như thế thì không tốt. Riêng của ta, nếu họ điều chỉnh lên có thể họ đưa ra kịch bản các nhà đầu tư tại Trung Quốc chạy ra ngoài sau khi có cuộc thương chiến Mỹ - Trung nên Việt Nam tiếp tục đà thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện nay Việt Nam so với các nước trong khu vực thì tỷ lệ thu hút FDI/GDP là cao nhất và tiếp tục được cải thiện. Chắc là họ đoán, tính toán theo cách đầu tư GDP do FDI đóng góp thì có thể sẽ cao lên.
Viện Kinh tế Việt Nam cũng có đánh giá riêng của mình nhưng cuối năm chúng tôi mới công bố. Chúng tôi đưa ra các kịch bản khác nhau, vì hiện nay nền kinh tế của ta độ mở là 200%, có thể nói phụ thuộc vào bên ngoài rất nhiều. Chứ tăng trưởng (các dự báo) hiện nay được đưa ra với giả định rất quan trọng là thế giới không có những thay đổi lớn.
Thực tế mình tăng trưởng được là do các thị trường xuất khẩu được ổn định, như Mỹ, EU, dù khối EU tăng trưởng không cao chỉ 1,2%, nhưng EU bây giờ lại vướng thêm Brexit chưa giải quyết ổn thỏa, rồi những bóng mấy u ám của thương chiến Mỹ - Trung cũng ảnh hưởng tới EU, hay một loạt các vấn đề có thể dẫn tới khủng hoảng như vấn đề về Trung Đông, Syria,… Nếu đưa ra các kịch bản để đánh giá tăng trưởng mà cứ giả định nó không có gì thay đổi thì chưa chắc đã đúng. Phải tính nhiều kịch bản, có cao, trung bình và thấp.
Tôi vẫn thiên về việc chúng ta không quá lạc quan vì một nền kinh tế mở cửa mạnh như thế, phụ thuộc vào bên ngoài nhiều thế, nên khi cuộc thương chiến xảy ra chưa thấy có hồi kết, cho đến khu vực EU vẫn chưa thấy động lực tăng trưởng mạnh thì tôi không cho rằng thế giới xung quanh ta là thuận lợi.
Có thể sẽ có những bất ổn xảy ra và sẽ làm sẽ ảnh hưởng tới đầu tư và thương mại, khi đó nguồn lực đầu tư và thương mại rất quan trọng cho tăng trưởng sẽ làm cho tăng trưởng có thể thay đổi chứ không phải có một con số 6,8, 6,9 hay 7%. Tôi cho rằng cần cẩn trọng hơn việc này.
Nên tôi vẫn nói tăng trưởng là dựa vào nguồn lực nào, có giữ được mức tăng trưởng đó lâu không. Vấn đề thứ hai là chất lượng tăng trưởng. Và lại, tăng trưởng mà mình đạt được chỉ là đầu ra để so sánh mức thu nhập đạt được thôi chứ chưa tính được chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả như vậy.

20191009_101717

Chi phí ở đây là như thế nào, thưa ông?
Nói như nhà doanh nghiệp bao giờ cũng tính cả chi phí chứ không riêng doanh thu. Doanh thu rất to nhưng chi phí cũng rất lớn thì có khi doanh nghiệp bị lỗ. Trong thống kê của ta chưa tính được chi phí mà chúng ta phải trả giá, ví dụ chi phí về xã hội, chi phí về môi trường, rồi không khí ô nhiễm thì chi phí cho người dân đi chưa bệnh (phổi), hay chi phí của tài nguyên thiên nhiên mất đi để đóng góp cho tăng trưởng, rồi các vấn đề khác của xã hội…
Chính vì thế chúng ta phải đặt ra mục tiêu xây dựng chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó có nội dung quan trọng là GDP xanh. Tôi cho rằng phải tính toán được cái đó thì mới làm rõ chi phí chúng ta phải bỏ ra bao nhiêu để đạt mức tăng trưởng cao là 6,9, hay 7,08% như năm ngoái.
Theo tôi, nếu tính vào tất cả chi phí kiểu như thế có thể nó làm sụt giảm tăng trưởng rất nhiều. Tất nhiên cái này phải có tính toán còn chưa tính toán thì chưa nói cụ thể được. Nhưng theo tôi những chi phí như trên ở Việt Nam là lớn, rất dễ nhận thấy như ô nhiễm môi trường, rồi tàn phá tài nguyên, tàn phá đa dạng sinh học, phát thải khí nhà kính…
Ngoài ra chưa kể vấn đề chất lượng theo hướng tạo việc làm, sinh kế bền vững cho người dân. Mình tăng trưởng thế nhưng nhiều tầng lớp xã hội có thể bị bỏ rơi hay bị đặt ở ngoài lề. Tăng trưởng phải làm thế nào để tất cả người dân tham gia vào quá trình tăng trưởng, chia sẻ kết quả tăng trưởng đó, đấy mới là cái chúng ta mong muốn.
"Cơ hội vàng" đã đến!
Ông từng một vài lần đề cập đến việc mô hình tăng trưởng cũ đã tới hạn và cần thiết phải nhanh chóng chuyển đổi mô hình kinh tế, mô hình tăng trưởng mới, trong đó xác định cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số, kinh tế số là hạt nhân và đảm bảo cho việc tăng trưởng ổn định, bền vững. Vì sao lại vậy, thưa ông?
Chúng ta đang sống trong bối cảnh mới của một thế giới đang vận động rất nhanh và có những yếu tố mới, trong đó có hai yếu tố làm ảnh hưởng đến Việt Nam là cách mạng công nghiệp 4.0, thứ hai là biến đổi khí hậu. Việt Nam là một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng biến đổi khí hậu nhiều nhất trên thế giới. Khi trước đây vẫn là đầu tư thương mại, dòng vốn… thì với hai yếu tố lớn này nó tạo cho chúng ta một sức ép mới phải đối mặt với thách thức mới.
Chuyển đổi số do cách mạng 4.0 đặt ra hàng loạt vấn đề chúng ta phải bắt nhịp ngay. Trước nay, một thời gian tôi có quan điểm đã tăng trưởng nhanh thì không thể bền vững và đã tăng trưởng bền vững thì không thể nhanh, vì lý do như đã nói: tăng trưởng nhanh thì ảnh hưởng ô nhiễm môi trường, phát thải khí nhà kính… Nhưng sau khi xuất hiện và càng ngày càng rõ nét hơn cách mạng công nghiệp 4.0 và những hiện tượng mới của nền kinh tế số tôi đã bắt đầu thay đổi quan điểm. Tôi cho rằng, chúng ta vẫn có thể vừa tăng trưởng nhanh vừa bền vững được nếu biết tận dụng cách mạng 4.0 và biết tận dụng những ý tưởng mới.
Trong nền kinh tế hiện đại ý tưởng rất quan trọng. Không chỉ là ý tưởng của doanh nghiệp, của người dân, mà ý tưởng của cách điều hành, ý tưởng của những thể chế sáng tạo, những thể chế mang tính chất thử nghiệm, thí điểm. Phải có những cách như thế thì mới có những đột phá.
Hiện nay yếu tố thể chế sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trò rất quan trọng, bên cạnh đó thì khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ là đóng góp - có lẽ quan trọng hàng bậc nhất - để quyết định chúng ta có đuổi kịp, không muốn nói là vượt các nước trong khu vực hay không. Và cũng chỉ có sử dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chúng ta mới có thể xử lý được các vấn đề về tác động của môi trường và biến đổi khí hậu.
Giai đoạn tới, theo tôi, mô hình tăng trưởng của Việt Nam phải đi vào chất lượng và phải quyết liệt việc dựa vào đổi mới sáng tạo, dựa vào khoa học công nghệ, dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao và biết tập hợp những người tài, trong đó đặc biệt là 4,5 triệu người Việt kiều để họ đóng góp trực tiếp, gián tiếp vào dòng chảy của đất nước.
Điều tôi lo lắng nhất là phần đầu tư cho khoa học công nghệ - một trong những nguồn gốc tăng trưởng bền vững tốt nhất. Hiện nay, các nước trong khu vực, các nước tiên tiến đều coi khoa học công nghệ là nguồn lực quan trọng bậc nhất để giữ cho tăng trưởng ổn định và bền vững. Tất cả các nước có thu nhập cao vẫn dành tỷ lệ % cao của GPD đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hàn,… đều đạt mức rất cao, trong đó nhiều nước đầu tư cho khoa học công nghệ, cho R&D đến 4% GDP. Trong khi của ta chi cho khoa học công nghệ chỉ dưới 5%, mới đạt 0,42% GDP, quá bé.
Vậy theo cá nhân ông, cơ chế chính sách, những cải cách hiện nay đã đủ và đảm bảo cho Việt Nam bắt nhịp được với mô hình tăng trưởng mới, với các yếu tố và xu hướng mới như đã đề cập trên?
Tôi cho rằng Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mới đây là vô cùng kịp thời và phù hợp. Vấn đề bây giờ là thực hiện thôi.
Chúng ta có rất nhiều chính sách và chính sách đúng, chỉ khi thực hiện thì còn nhiều vấn đề, vướng mắc, không phải chỉ một chuyện thực hiện theo nghĩa đen mà còn có những điều kiện chưa đảm bảo, nguồn lực không có. Đặt ra chính sách mà không có nguồn lực thực hiện thì cũng không thực hiện được.
Hay rất nhiều yếu tố khiến chúng ta có chính sách đúng, quyết liệt, nhưng đến khoản thực hiện thì vướng rất nhiều thứ, kể cả chồng chéo về luật, chồng chéo về các quy định, cho đến các điều kiện để thực hiện đạt được các mục tiêu đặt ra.
Tôi nghĩ, nhận thức và chính sách của Trung ương, Chính phủ, các Bộ ngành về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, về chuyển đổi số, kinh tế số, đổi mới sáng tạo – những yếu tố then chốt của mô hình tăng trưởng mới, là đúng hướng, bởi lần này nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội thì không còn "cơ hội vàng" nào để có thể đuổi kịp các nước và vươn lên.
Khi tư duy thay đổi chắc chắn thể chế, tổ chức bộ máy cũng thay đổi theo, không thì mãi mãi chúng ta không bao giờ có "cơ hội vàng" này nữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét