Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019

20190430. VÌ SAO NGƯỜI DO THÁI GIỎI LÀM KINH TẾ ?

ĐIỂM BÁO MẠNG
VÌ SAO NGƯỜI DO THÁI GIỎI LÀM KINH TẾ ?

NGUYỄN HẢI HOÀNH / NCQT 12-10-2015

wedding_hats_2139761b

Giỏi thực hành và giỏi cả lý thuyết kinh tế
Ai cũng biết người Do Thái từ xưa đến nay đều rất giỏi làm kinh tế. Nếu không thì họ không thể nào tồn tại nổi trong suốt 2.000 năm bị trục xuất ra khỏi tổ quốc mình, phải sống lưu vong khắp thế giới, phần lớn đi tới đâu cũng bị hắt hủi, xua đuổi thậm chí hãm hại, tàn sát, bị cấm sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, nguyên vật liệu …). Cho tới năm 1948 dân tộc lưu vong này mới được Liên Hợp Quốc chỉ định cho một “mảnh đất cắm dùi” rộng 20.770 km2 – tức nước Israel hiện nay, nơi tập trung khoảng 43% trong tổng số 13,9 triệu người Do Thái trên toàn thế giới.
Israel nghèo tài nguyên, thiếu cả nước ngọt, lại luôn luôn sống trong tình trạng bất ổn do bị các nước A Rập xung quanh đe dọa chiến tranh, nhưng người dân nước này đã vượt qua mọi khó khăn xây dựng được một nền kinh tế phát triển. GDP bình quân đầu người năm 2014 đạt 32.700 USD, cao thứ 50 trên thế giới, là nước có mức sống cao ở vùng Trung Đông và châu Á.[1] 
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ có 5,7 triệu người, chiếm 40% tổng số người Do Thái trên toàn thế giới, là quần thể dân tộc thiểu số thành công nhất, có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của dân Mỹ. Dù chỉ chiếm khoảng 1,7~2,6% số dân nước Mỹ (số liệu 2012; tùy định nghĩa thế nào là người Do Thái) nhưng người Do Thái chiếm khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính nước này, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel những khoản tiền khổng lồ.[2]
Trong 50 người giàu nhất thế giới hiện nay do tạp chí Forbes đưa ra (3/2015) có tới 10 người Do Thái.[3] Đó là :
  • Larry Ellison, tài sản 54,2 tỷ USD, nhà sáng lập và CEO Oracle Corp., giàu thứ 3 nước Mỹ
  • Michael Bloomberg, 35,5 tỷ USD
  • Mark Zuckerberg, 33,4 tỷ USD, tỷ phú trẻ nhất thế giới (sinh 1984)
  • Sheldon Adelson, 32,4 tỷ USD, vua casino
  • Sergey Brin và Larry Page (29,2 và 29,7 tỷ USD), đồng sáng lập Google
  • George Soros, 24,2 tỷ USD, nhà đầu tư và từ thiện
  • Carl Icahn, 23,5 tỷ USD, nhà đầu tư và từ thiện
  • Len Blavatnik, 20,2 tỷ USD, người giàu nhất nước Anh (sinh tại Liên Xô cũ),
  • Michael Dell, nhà sáng lập Dell Computer Founder.
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng to lớn nếu không nói là quyết định tới tiến trình tiến hóa của nhân loại:
  • Karl Marx[4] người xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
  • Trong tổng số 74 chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1969-2014, có 22 là người Do Thái, chiếm tỷ lệ gần 30%, dù người Do Thái chỉ chiếm 0,19 % số dân toàn cầu. Chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…
  • Từ năm 1987 tới nay có ba người Do Thái kế tiếp nhau làm Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed, tức Ngân hàng Trung ương Mỹ), cơ quan nắm quyền sinh sát trong giới tài chính Mỹ và thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu. Đó là ông Alan Greenspan 19 năm liền (2/1987-2/2006) được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử vào chức vụ này. Tiếp sau là ông Ben Bernanke (nhiệm kỳ 2/2006-2/2014) và bà Janet Yellen (từ 2/2014 tới nay).
  • Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James D. Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển, đều là người Do Thái.
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:
  • Jacob Schiff (1847-1920), chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; năm 1904 do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong Thế chiến II phát xít Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc, tuy đồng minh số một của Nhật là phát xít Đức có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy. Schiff là người nước ngoài đầu tiên được Nhật Hoàng Minh Trị tiếp kiến tại Hoàng cung Nhật.
  • George Soros, nổi tiếng về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn, từng làm chao đảo thị trường tài chính toàn cầu.
  • Michael Blooomberg, sáng lập và sở hữu 88% Bloomberg L.P., một công ty truyền thông về tin tức tài chính và dịch vụ thông tin. Blooomberg từng trúng cử liền 3 khóa thị trưởng thành phố New York (2002-2013) với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế thế giới.
Nguyên nhân sâu xa
Vì sao người Do Thái lại giỏi làm kinh tế, tài chính trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy?
Lịch sử cho thấy yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của họ.
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái(Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man trong suốt 2.000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – hơn 10 thế kỷ sau kinh điển này được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành. Ngoài ra họ chú trọng truyền cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn quan điểm của đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Khổng, ta cần phân tích thêm.
Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau và chiến tranh giữa các quốc gia. Hegel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền về tài sản.” Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, toàn dân mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có, tức cùng có nhân quyền và thực sự bình đẳng với nhau.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ, là tôn giáo của người nghèo. Khổng giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.
Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3.000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho Abraham vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài.
Thượng Đế Jehovah cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa.
Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.
Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay mà chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn.
Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Ai từng đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebecca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Các vở kịch của Shakespear đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 1930. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.”
Karl Marx xuất thân gia đình khá giả, vợ ông cũng là con nhà quý tộc, nhưng ông không coi trọng đồng tiền. Marx từng nói: Đồng tiền là con đĩ của loài người.[5] Trong bài viết “Về vấn đề Do Thái” công bố năm 1843, ông mạnh mẽ công kích dân tộc Do Thái: “Sự sùng bái cá nhân của người Do Thái là gì? Lừa đảo. Đức Chúa Trời của họ là gì? Tiền!”.[6] Ông cho rằng tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Như vậy nghĩa là Marx đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác … Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.
Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng góp 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ khi ấy) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.
Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …
Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản.
Kinh Talmud viết: Ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.
Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.
Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn: – Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;  – Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;  – Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;  – Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;  – Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;  – Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền;  v.v…
So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).
Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người.
Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái.
Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Do Thái của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, cuối cùng trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh ấy, và bây giờ đã đến lúc loài người nên xem lại quan điểm này./.
Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
——————–
[1] Theo The CIA World Factbook.
[4] K. Marx là một trong hai lãnh tụ cộng sản người Do Thái phủ nhận nguồn gốc này của mình [người kia là Lev Davidovich Trotsky, tức Лев Давидович Троцький, 1879-1940, lãnh tụ Đảng Cộng sản Bôn-sê-vich Nga]. Cha và mẹ Marx đều là người Do Thái. Cha ông có nguồn gốc nhiều đời là giáo sĩ Do thái, về sau đã cải đạo sang Tin Lành vì nếu không sẽ không được hành nghề luật sư (ở nước Phổ).

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2019

20190429. BÀN VỀ MINH BẠCH SỨC KHỎE LÃNH ĐẠO

ĐIỂM BÁO MẠNG
SỨC KHỎE LÃNH ĐẠO-CHUYỆN TƯ HAY CHUYỆN CÔNG ?

VÕ VĂN QUẢN/ LK/BVN 28-4-2019

Nguyễn Phú Trọng và Trần Đại Quang - hai chủ tịch nước liên tiếp bị đồn lâm bệnh nặng. Ảnh: Đất Việt.
“… khi Tổng thống không còn đủ khả năng thực thi quyền lực và nghĩa vụ của mình, Phó Tổng thống sẽ tiếp quản thẩm quyền này với danh nghĩa Quyền Tổng thống…”
(Tu chính án thứ 25 – Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ)
Tổng thống Mỹ Donald Trump bắt đầu nắm giữ quyền lực của Nhà Trắng vào năm 2017 ở tuổi 71. Vì vậy, sức khỏe của ông là một vấn đề được báo chí bàn tán rất sôi nổi. Đỉnh điểm là việc một số dân biểu đảng Dân chủ bắt đầu soi mói đến sức khỏe và “sự minh mẫn” của ông xem có nên vận dụng Tu chính án thứ 25 để bắt buộc một tổng thống từ nhiệm vì lý do không đủ sức khỏe để quản trị quốc gia hay không.
Trump, đáp lại không chỉ bằng một bản báo cáo sức khỏe được công bố rộng rãi ghi nhận ông đang ở tình trạng sức khỏe “xuất sắc”, thậm chí ông còn chủ động đề nghị bác sĩ của Nhà Trắng thực hiện một cuộc kiểm tra khả năng nhận thức (cognitive exam). Đây là một loại kiểm tra không nằm trong báo cáo kiểm tra sức khỏe định kỳ của tổng thống Hoa Kỳ, nhưng được Trump vận dụng để “dọa nạt” những ai cho rằng ông không còn đủ minh mẫn để làm việc nữa.
Cuộc đấu đá chính trị này cho chúng ta hai kết luận thú vị về vấn đề công khai thông tin sức khỏe lãnh đạo tại Hoa Kỳ.
Điểm thứ nhất, sức khỏe lãnh đạo là một thông tin có thể sẽ bị soi mói. Thật ra các nhà lập pháp hay người dân rõ ràng có quyền nghi vấn và đòi hỏi loại thông tin này. Một người đủ sức khỏe thể chất lẫn tinh thần là điều người dân nào cũng kỳ vọng ở người lèo lái công việc quản trị quốc gia đầy áp lực.
Điểm thứ hai, minh bạch thông tin sức khỏe lãnh đạo là cách tốt nhất để hạn chế kiểu chính trị “tán dóc”, chính trị “trà dư tửu hậu”, và những tin đồn liên quan đến chuyện thâm cung bí sử. Đó cũng là cách để một hệ thống chính trị tỏ ra sòng phẳng với những người dân đã chọn mình làm đại diện.
Tại Việt Nam, những câu chuyện về sức khỏe lãnh đạo rất nhiều, rất phổ biến, nhưng toàn chỉ là “chuyện kể đêm khuya”. Chúng ta không biết gì cả cho đến khi chuyện đã rồi. Ngay cả ngày chết của nhiều vị lãnh đạo quan trọng của quốc gia cũng phải chờ chỉ đạo, nghị quyết mới được công bố. Cách thức làm việc này, theo tôi, không phải là một thực hành tốt nếu chúng ta hướng đến xây dựng môi trường chính trị lành mạnh, minh bạch.

Bác sĩ Nhà Trắng công bố kết quả kiểm tra sức khoẻ của Tổng thống Donald Trump, ngày 17/1/2018. Ảnh: CNN
Vì sao cần minh bạch thông tin sức khỏe lãnh đạo
Vấn đề thông tin sức khỏe lãnh đạo được chính thức luật hóa tại Việt Nam trong Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước 2018, quy định rằng “thông tin bảo vệ sức khỏe lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước” nằm trong phạm vi bí mật nhà nước.
Tuy nhiên, việc phân loại và ban hành danh mục bí mật nhà nước chính thức vẫn còn phụ thuộc vào việc Chính phủ tiếp nhận đề xuất từ các cơ quan nhà nước, xây dựng mô hình bảo vệ, phương pháp bảo vệ thông tin mật và chi tiết hóa trong các nghị định, thông tư hướng dẫn. Đáng tiếc là luật chỉ vừa ban hành vào tháng 11 năm 2018, nên vẫn chưa biết liệu loại thông tin liên quan đến sức khỏe của lãnh đạo cấp cao sẽ thuộc diện thông tin mật cấp độ nào, và sẽ được bảo vệ như thế nào.
Song, cho đến nay, có thể khẳng định rằng thông tin về tình trạng và vấn đề bảo vệ sức khỏe lãnh đạo đã được Việt Nam luật hóa trở thành một dạng tài liệu mật quốc gia và được bảo vệ như rất nhiều nguồn thông tin mật khác.
Thật ra đây không phải là chuyện chỉ có ở Việt Nam. Trong quyển “Bên trong Kremlin của Gorbachev: Hồi ký của Yegor Ligachev”, tác giả Ligachev đã phác họa toàn cảnh tình trạng sức khỏe của các lãnh đạo Liên Xô. Theo đó, sức khỏe của lãnh đạo đảng và nhà nước luôn được xem là bí mật nhà nước và được bảo vệ hết mức. Với tư cách là một chính trị gia cấp cao trong nhà nước Liên bang Xô Viết, Ligachev phản đối cách tiếp cận trên.
Ông nhận định:
“Đến cuối cùng, sức khỏe của một con người ở cấp độ chính trị này không chỉ là vấn đề cá nhân nữa. Cùng với trí tuệ, đạo đức chính trị và các tiêu chuẩn khác, sức khỏe thể chất và tinh thần của một chính trị gia sẽ là những yếu tố căn bản nhất để người đó có thể đưa ra những chính sách đúng mực, chưa nói đến việc chúng có thành công hay không”.
Ligachev còn cảnh báo, việc giữ bí mật thông tin sức khỏe của những nhà lãnh đạo sẽ tạo kẽ hở cho những kẻ dưới quyền – dù là một vài cá nhân hay cả một băng nhóm chính trị – nhân cơ hội thao túng chính trường, tạo ra hiện tượng “buông rèm nhiếp chính” đáng lẽ chỉ nên xuất hiện ở thời kỳ phong kiến.
Trong một nền dân chủ, việc công khai sức khỏe lãnh đạo là nhân tố tối quan trọng để bảo đảm rằng người dân biết tường tận về tình hình của người đang nhân danh mình lèo lái quốc gia. Từ đó, các thiết chế dân chủ có thể can thiệp kịp thời khi vấn đề này gây ảnh hưởng đến an ninh và lợi ích quốc gia. Đây mới thật sự là cách mà chúng ta bảo vệ quốc gia.

Bệnh tật và cái chết của Chủ tịch nước Trần Đại Quang vào năm 2018 đã tạo ra một hiện tượng chính trị hiếm có: sự lên ngôi của Nguyễn Phú Trọng với tư cách là người đứng đầu cả đảng và nhà nước. Ảnh: chinhphu.vn.
Nói đi cũng phải nói lại
Cho đến hiện nay, có thể khẳng định rằng rất ít quốc gia coi sức khỏe của lãnh đạo là bí mật quốc gia. Việt Nam do đó chắc chắn thuộc nhóm số ít trong câu chuyện này. Song lại cũng vô cùng không công bằng cho Việt Nam nếu cho rằng chỉ có ở Việt Nam chuyện này mới nhiêu khê như vậy.
Ở Hoa Kỳ, dù không được xem là bí mật nhà nước, không thể tìm thấy quy định nào bắt buộc các lãnh đạo, các ứng cử viên tranh cử cho chức danh tổng thống phải công bố các tài liệu về sức khỏe của mình. Truyền thống này chỉ được hình thành vào nửa cuối thế kỷ 20. Trong Tu chính án thứ 25, khái niệm “đủ khả năng để nắm giữ chức vụ” (“being fit for office”) cũng không phải là một nguyên tắc pháp lý rõ ràng, không được định nghĩa rõ ràng và cũng không có cơ chế thực thi. Họa may, chúng ta phải chờ đến khi Tối cao Pháp viện giải thích thì mới rõ.
Không chỉ vậy, có rất nhiều vị tổng thống Hoa Kỳ đã phải giấu giếm tình trạng ốm đau bệnh tật của mình để duy trì sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Một trong những trường hợp tệ nhất, phải kể đến bệnh tình của Tổng thống Woodrow Wilson – vị tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ.
Ông nhậm chức vào năm 1913. Ngay tại thời điểm này, nhiều bác sĩ và chuyên gia y khoa đã nhận định rằng ông chắc chắn không thể tại vị quá một năm. Nhận định này không đúng hoàn toàn, nhưng vào năm 1919, khi ông đang ở nhiệm kỳ thứ hai, bác sĩ ghi nhận ông bị méo mồm – một dấu hiệu điển hình của chứng đột quỵ. Vào một buổi sáng tháng 10/1919 – giai đoạn quan trọng để xây dựng danh tiếng cho ứng cử viên đảng Dân chủ sẽ tranh cử tiếp theo – Wilson thức dậy và phát hiện mình bị liệt nửa người.
Vợ ông, bà Edith Wilson, nhanh chóng can thiệp, giữ bí mật về tình trạng sức khỏe của chồng, bảo vệ danh tiếng về sự minh mẫn, năng lực của Wilson và sự ổn định của chính quyền dưới trướng ông. Nói cách khác, Edith đang buông rèm nhiếp chính. Và người dân cả nước thì không được biết gì về chúng cho đến khi nhiệm kỳ của ông chính thức kết thúc vào năm 1921.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng người Mỹ không thích bị lừa hay bị giấu giếm. Một trong những lý do khiến tình trạng nói trên diễn ra là bởi vì Tu chính án thứ 25 chỉ được thông qua sau nhiều tranh cãi chính trị vào năm 1967, mà nguyên nhân một phần xuất phát từ vụ bê bối của Wilson xảy ra cách đó hơn 50 năm.
***
Tựu chung, quyền được biết về tình hình sức khỏe lãnh đạo, theo tôi nghĩ, nên là một quyền cơ bản của công dân. Đó không chỉ đơn giản là thông tin để có thông tin, đó là thông tin để người dân biết liệu rằng người lãnh đạo của mình có còn đủ trí lực và thể lực để đưa ra những quyết định đúng đắn hay không. Không quan tâm đến vấn đề này đôi khi để lại những hệ quả hết sức hệ trọng.
Theo nghiên cứu “Bệnh tật, Chứng mất trí nhớ và Tuyệt vọng: Những căn bệnh nghiêm trọng của Nguyên thủ Quốc gia” (Diseased, demented, depressed: serious illness in Heads of State) của David Owen, một bác sĩ – chính trị gia lừng danh của Vương Quốc Anh, ông liên kết bệnh lý của nhiều chính trị gia châu Âu với sự trỗi dậy của… Adolf Hitler.
Owen cho rằng, bệnh ung thư hay xơ cứng động mạch đều có khả năng dẫn đến trạng thái tâm lý trầm cảm, làm giảm động lực và năng lượng chính trị (chưa kể đến những đau đớn thể xác). Điều này, đương nhiên tác động tiêu cực đến khả năng đưa ra quyết sách của một nhà lãnh đạo; khiến họ có xu hướng chấp nhận “hiện trạng chính trị” (status quo) như nó đã từng; thiếu quyết đoán, không giải quyết được vấn đề và thường làm tình hình tồi tệ hơn. Các căn bệnh của Thủ tướng Anh Ramsay MacDonald, của Tổng thống Phần Lan Marshal Pilsudski hay Tổng thống Đức Paul von Hindenberg đã khiến họ bị suy giảm năng lực chính trị đáng kể, từ đó mở đường cho sự trỗi dậy của Hitler.
Nếu sức khỏe ảnh hưởng tới chính trị đến thế, việc đòi hỏi thông tin về sức khỏe của lãnh đạo quốc gia có gì sai hay không?
V.V.Q.

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019

20190428. ẢNH HƯỞNG CỦA THAM NHŨNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG

ĐIỂM BÁO MẠNG
THAM NHŨNG DÙ LỚN HAY NHỎ ĐỀU LÀ KẺ THÙ CỦA TĂNG TRƯỞNG

BÙI TRINH/ TBKTSG 26-4-2019

(TBKTSG) - Báo cáo thường niên Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2018, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) vừa công bố, cho thấy bức tranh tổng thể của môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều điểm đáng quan ngại.
Chi phí không chính thức giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. 58% doanh nghiệp trong nước vẫn còn bị nhũng nhiễu. 54% doanh nghiệp vẫn phải trả chi phí bôi trơn.

Tỷ lệ doanh nghiệp có trả chi phí không chính thức, theo khảo sát từ năm 2006 - 2018.
Khi đọc báo cáo của VCCI trong hai năm 2017 và 2018, người ta có cảm tưởng nó cũng giống như báo cáo của Tổng cục Thống kê hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tức là năm nào cũng có “chuyển biến tích cực”. Nhưng phải khẳng định rằng 58% số doanh nghiệp trong nước bị nhũng nhiễu và 54% doanh nghiệp trong nước vẫn phải trả chi phí bôi trơn là con số rất lớn.
Trong khi đó, theo VCCI, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có “Cảm nhận tích cực về triển vọng phát triển còn rõ rệt hơn ở các doanh nghiệp trong nước, có tới 60% doanh nghiệp FDI cho biết có kế hoạch tăng quy mô kinh doanh tại Việt Nam, mức cao nhất kể từ năm 2011”. Điều này phải chăng phản ánh sự nhũng nhiễu, bôi trơn chỉ phổ biến đối với doanh nghiệp trong nước?
Bản báo cáo cho rằng chi phí không chính thức giảm, đặc biệt là tham nhũng vặt đã giảm rõ rệt so với thời kỳ trước và môi trường kinh doanh cũng trở nên bình đẳng hơn. Việc ưu ái doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI so với doanh nghiệp tư nhân trong nước đã giảm đáng kể. Nhưng, cũng theo báo cáo này, vẫn có tới 40% doanh nghiệp cho biết các tỉnh còn ưu tiên, ưu ái doanh nghiệp nhà nước và FDI hơn các doanh nghiệp tư nhân.
Đối với doanh nghiệp, việc gia nhập thị trường vẫn còn nhiều khó khăn; thủ tục hậu đăng ký kinh doanh vẫn là gánh nặng. Trên dưới 30% doanh nghiệp cho biết gặp nhiều khó khăn khi xin các giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, các giấy phép phù hợp với tiêu chuẩn và các giấy tờ quy định khác. Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, thuế, quản lý thị trường, giao thông vận tải. Tính minh bạch, cũng theo phản ánh của doanh nghiệp, còn ít được cải thiện...
Nhận định chi phí không chính thức giảm, đặc biệt tham nhũng vặt giảm rõ rệt, dù đó là sự so sánh giữa các kết quả khảo sát, nhưng cũng chưa thể lấy đó làm mừng, vì tình trạng doanh nghiệp phải bôi trơn, bị nhũng nhiễu khiến họ phải kêu than còn nhiều lắm, nhưng nhiều năm nay vẫn chưa có giải pháp, hành động quyết liệt để giải quyết.
Những con số thực tế trên cũng cho thấy vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cố tình hành doanh nghiệp để buộc họ phải “lót tay” - đưa phong bì. Khi nào bộ máy còn những cán bộ như vậy thì nền kinh tế còn bị ngáng chân, doanh nghiệp, người dân còn phải khổ sở.
Chính phủ nói nhiều về điều kiện kinh doanh được cắt bỏ hoặc đơn giản hóa, nhưng vì sao chưa tạo được nhiều tác động tích cực đến doanh nghiệp? Phải chăng, các thủ tục được cắt giảm, nhưng thực chất chỉ là thu gọn đầu mối, hình thức giảm nhưng nội dung không giảm?
Hơn nữa, dù thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh được đơn giản hóa, cắt giảm nhưng một khi những người thực thi còn cố tình tìm ra những kẽ hở để gây khó, nhũng nhiễu thì doanh nghiệp vẫn không được hưởng lợi mà còn bị thiệt thòi hơn. Con số trên 50% doanh nghiệp vẫn bị nhũng nhiễu, bị vòi vĩnh phải bôi trơn là điều khó chấp nhận và không thể chấp nhận trong khi chúng ta đang hội nhập kinh tế một cách sâu rộng. Tham nhũng vẫn còn ngang nhiên hoành hành thì đừng vội bàn đến 4.0.
Phải thấy rằng, những khoản trả phí bôi trơn một phần là tiền túi của doanh nghiệp bỏ ra, một phần sẽ phân bổ, tính vào giá thành sản phẩm vật chất và dịch vụ. Như vậy, cuối cùng vẫn là người dân và Nhà nước thiệt hại (vì phải chịu giá cao và thất thu thuế).
Hoặc nếu không đưa vào giá thành thì lợi nhuận trước thuế sẽ giảm, kéo theo tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế giảm, kéo theo GDP giảm. Còn nếu các khoản lót tay, bôi trơn từ lợi nhuận sau thuế thì sẽ khiến nguồn lực để tái đầu tư ở chu kỳ sản xuất sau sụt giảm. Như vậy có thể nói tham nhũng dù lớn hay nhỏ đều là kẻ thù của tăng trưởng.
Báo cáo chỉ số cạnh tranh của VCCI là cần thiết để đánh giá những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc từ phía doanh nghiệp với cơ quan nhà nước. Nhưng không phải báo cáo xong để đấy, báo cáo cho có. Điều quan trọng là qua báo cáo đó để có những hành động cụ thể tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Phải giải quyết tình trạng nhũng nhiễu, bôi trơn một cách triệt để, như thế doanh nghiệp mới có thể phát triển và hướng đến một nền công vụ minh bạch. 
TIN VÀ BÀI LIÊN QUAN: Chi phí không chính thức của doanh nghiệp vẫn còn cao

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2019

20190427. BÀN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ KHOÁNG SẢN

ĐIỂM BÁO MẠNG
QUẢN TRỊ THUẾ KHOÁNG SẢN: CHIẾN LƯỢC ĐÚNG NHƯNG THỰC TẾ LẠI BẤT CẬP

TS TRỊNH TIẾN DŨNG* / TBKTSG  24-4-2019

(TBKTSG) - Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 chỉ còn hơn một năm nữa là hết hiệu lực.
Căn cứ vào những gì được đăng tải công khai, có thể thấy việc thực hiện chiến lược này trong lĩnh vực khai khoáng hiện đang gặp rất nhiều khó khăn và có nguy cơ phá sản vì không đạt được mục tiêu đề ra.
Thuế tài nguyên cao nhưng việc thu và sử dụng các khoản ngân sách này lại không minh bạch. Ảnh: THANH TAO
So với thế giới, lịch sử lập pháp và lập quy về thuế khoáng sản ở Việt Nam còn rất non trẻ, mới chỉ trên vài thập kỷ. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã đạt tới độ mở rất lớn với việc tham gia sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới.
Một khi đã vào cùng sân chơi thì Việt Nam không thể đứng ngoài luật chơi chung. Đó là các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Do vậy, mọi chính sách kinh tế, kể cả chính sách thuế khoáng sản, không những phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước mà còn phải đáp ứng các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.
Chiến lược thì đúng đắn
Theo chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, chính sách thu ngân sách nhà nước liên quan đến hoạt động thăm dò khai thác và sử dụng tài nguyên nhằm mục đích “khuyến khích sử dụng tài nguyên có khả năng tái tạo, điều tiết hợp lý việc khai thác, sử dụng tài nguyên không tái tạo...”.
Ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính, nói cụ thể hơn, đại ý: Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở hữu nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của tổ chức, cá nhân.
Thế nhưng, chính sách thuế khoáng sản đúng đắn nêu trên đã không đi vào cuộc sống. Tài nguyên khoáng sản đang bị khai thác cạn kiệt, gây hệ lụy cho môi trường và dân sinh; số thuế thu vào ngân sách từ hoạt động khoáng sản (ngoài dầu khí) rất nhỏ, không đáng kể, thậm chí ở nhiều địa phương số thu này không đủ trang trải chi phí quản lý của chính quyền đối với hoạt động khai thác.

Cụ thể, số thu thuế tài nguyên trong tổng thu ngân sách nhà nước (không kể dầu khí) chỉ đạt khoảng 0,9-1,1% trong các năm 2011-2013; năm 2015 có tăng lên một ít, đạt khoảng 1,22%; việc khai thác thiếu bền vững, làm cạn kiệt tài nguyên, tăng ô nhiễm...
Triển khai chiến lược thuế khoáng sản lại bất cập
Hiện nay, các doanh nghiệp khai thác mỏ ở Việt Nam đang chịu nhiều sắc thuế hơn những ngành khác (bảng 1).
Trong khi đó, ở các nước phát triển, người ta không đánh theo từng sắc thuế đơn lẻ mà tính cả gói nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải đóng cho nhà nước theo nguyên tắc “khả năng nộp thuế” của người nộp kết hợp với nguyên tắc “lợi ích”. Nghĩa là doanh nghiệp đóng theo khả năng tài chính của mình. Nguyên tắc này phản ánh chính sách “khoan sức dân” hay “nuôi dưỡng nguồn thu” đã trở nên khá quen thuộc ở Việt Nam, nhưng lại không vận dụng cho ngành khai thác khoáng sản.

Theo cách này, ngành thuế cần xác định tổng số tiền thuế các loại mà một doanh nghiệp mỏ trung bình phải “cõng” trên vai mình là bao nhiêu, từ đó xem doanh nghiệp có chịu đựng nổi không? (Xem minh họa bảng 2).
Đồng thời, tính ổn định của thuế suất thuế tài nguyên khá thấp. Trong năm năm (2010-2015), thuế suất thuế tài nguyên bị điều chỉnh đến ba lần, tăng liên tục mặc dù vẫn nằm trong khung quy định của Luật Thuế tài nguyên 2009.
Nghề mỏ tiềm ẩn nhiều rủi ro và bất trắc khó lường nên rất cần sự ổn định của môi trường vĩ mô. Nhà đầu tư vào ngành mỏ thường phải cân nhắc sự đánh đổi giữa lợi nhuận tiềm tàng với rủi ro tiềm ẩn trước khi quyết định đầu tư. Ngoài ra, cách tính thuế chưa phù hợp. Hiện Việt Nam tính thuế dựa trên sản lượng khai thác hay doanh thu. Cách làm này tuy đơn giản, dễ làm nhưng có bất cập lớn là nó không khuyến khích khai thác quặng chất lượng thấp hơn, làm giảm tuổi thọ mỏ và thất thoát tài nguyên.
Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế khoáng sản Việt Nam
Kinh nghiệm phổ biến trên thế giới là cần đảm bảo chính sách thuế có các yếu tố lành mạnh như: công bằng, đơn giản và minh bạch, ổn định, tính thỏa đáng của việc thu thuế...
Tính công bằng: gồm công bằng ngang và công bằng dọc. Công bằng ngang đòi hỏi các đối tượng có hoàn cảnh/điều kiện như nhau phải đóng thuế ngang nhau. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải mở rộng diện đóng thuế. Công bằng dọc nghĩa là các đối tượng có khả năng đóng cao hơn thì phải đóng thuế nhiều hơn để đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập.
Tính thỏa đáng của việc thu thuế: Phản ánh nguyên tắc khả năng nộp thuế của đối tượng. Hầu hết các nước đang phát triển áp dụng thuế suất từ 40-60% trên lợi nhuận tính thuế. Việc tính thuế thường theo một trong hai cách là căn cứ vào sản lượng khai thác (hay doanh thu) hoặc lợi nhuận.
Mỗi cách đều có ưu nhược điểm riêng. Tính thuế dựa vào lợi nhuận của doanh nghiệp có ưu điểm nổi trội là nó xét tới rủi ro của doanh nghiệp do sự biến động của giá khoáng sản trên thị trường thế giới cũng như các khó khăn khác trong suốt chu kỳ hoạt động của mỏ. Tuy vậy, thách thức lớn nhất của cách tính này có lẽ là tính phức tạp của việc xác định lợi nhuận, nhất là ở các nước đang phát triển khi năng lực quản lý thuế còn hạn chế.
Tính ổn định: Rủi ro là yếu tố hàng đầu mà nhà đầu tư mỏ thường cân nhắc, trong đó có tính ổn định của hệ thống thuế. Vì vậy muốn giảm rủi ro thì Nhà nước phải bảo đảm tính ổn định của hệ thống thuế để thu hút các nhà đầu tư, nhất là trong dài hạn.
Tính đơn giản và minh bạch: Nhằm giúp doanh nghiệp không bị rơi vào mê hồn trận thuế như bảng, biểu và hồ sơ thuế, nhờ đó mà giảm được chi phí tuân thủ. Do đơn giản nên việc giám sát cũng dễ dàng hơn
Tính trung lập: Ưu đãi thuế không được phép làm méo mó các quyết định đầu tư giữa các ngành.
So sánh thuế và các khoản phí của các nước theo số liệu của Price Water House (PWC) năm 2012(1) với mức thuế theo Nghị quyết 1084 năm 2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có thể thấy thuế suất thuế tài nguyên ở Việt Nam là khá cao.
Còn về tính đơn giản, báo cáo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB, 2011) cho rằng Luật Thuế tài nguyên Việt Nam đưa ra hơi nhiều mức thuế suất và có những mức thuế suất khá cao đối với một số ngành. Hàm ý của báo cáo là sự phức tạp của pháp luật thuế Việt Nam và mức thuế khoáng sản cao có thể là một trong các nguyên nhân dẫn đến tham nhũng và thất thoát thuế của Việt Nam không ít.
Về tính minh bạch, năm 2017, mức độ minh bạch trong ngành công nghiệp khai khoáng của Việt Nam chỉ đứng thứ 45 trong 89 quốc gia được đánh giá(2).
WB không đưa ra nhận xét trực diện nhưng số liệu tại hộp dưới cho thấy mức tham nhũng và thất thoát thuế của Việt Nam khá cao trong số 81 nước, cao hơn một số nước láng giềng và khu vực (Trung Quốc, Thái Lan, Philipines, Ấn Độ...).
Chỉ số tham nhũng thuế và thất thoát thuế của Việt Nam lần lượt là: 2,42 và -0,85 so với Trung Quốc (2,55/-0,7), Thái Lan (2,53; -0,72), Philippines (2,80/-0,43) và Ấn Độ (2,70/-0,53).
Ghi chú: Thang chỉ số có 7 bậc, từ 0 đến 6: 0 = tham nhũng nhất; 6 = ít tham nhũng nhất.
Nguồn: WB, 2011, tr.285
Còn Duane Moris Vietnam thì cho rằng thuế tài nguyên, thuế khác và các khoản phí của Việt Nam cao nhưng việc thu và sử dụng các khoản ngân sách này lại không minh bạch, cộng đồng doanh nghiệp không được biết về cách quản lý, sử dụng phí.
Vì vậy Chính phủ nên công khai việc cấp phép và các nghĩa vụ tài chính của các ứng viên nộp đơn xin khai thác mỏ cũng như việc quản lý phí thu được. Việc tăng thuế và phí chỉ làm cho các doanh nghiệp mỏ hạn chế đầu tư trang bị công nghệ tiên tiến và chỉ sử dụng công nghệ rẻ nên khó tránh khỏi gây ô nhiễm trường (Duane Moris Viet Nam, 2015)(3).
Tính ổn định của chính sách thuế khoáng sản Việt Nam cũng thấp. Trong vòng hơn 20 năm (1991-2015), Nhà nước đã liên tục tăng thuế suất thuế tài nguyên qua 6 lần. Mặc dầu theo WB, Luật Thuế tài nguyên 2009 giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn và đảm bảo công bằng xã hội trong khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên (WB, nguồn nêu trên) nhưng tính ổn định thấp đã làm trì trệ hoạt động khai thác khoáng sản.
Hệ quả là giảm số doanh nghiệp thực tế đóng thuế, làm thu hẹp cơ sở thuế thay vì mở rộng như chủ trương của Chính phủ nêu trong Chiến lược cải cách thuế đến năm 2020.
Một số khuyến nghị
Chính sách thuế khoáng sản cho những thập niên tới nên được xây dựng theo hướng tạo điều kiện để từng bước xây dựng một nền quản trị thuế hiện đại, phù hợp với thông lệ tốt trên thế giới.
Cụ thể: nghiên cứu tính khả thi và tác động tài khóa để tiến tới đánh thuế theo khả năng nộp thuế của doanh nghiệp. Đối với thuế tài nguyên (trừ dầu và khí), cần rà soát lại một cách hệ thống để cải thiện một cách căn bản quan hệ chi phí - lợi ích. Từng bước chuyển dần từ việc đánh thuế dựa trên sản lượng và/hoặc doanh thu và tự kê khai thuế của doanh nghiệp mỏ sang đánh thuế dựa trên lợi nhuận như nhiều nước đã áp dụng.
Muốn vậy, điều kiện tiên quyết là phát triển năng lực quản trị thuế, cả về con người và cơ sở vật chất, đặc biệt là công nghệ thông tin. Đổi mới quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp mỏ theo hướng chuyển sang quan hệ đối tác, chia sẻ lợi ích bình đẳng và có trách nhiệm.
Để được như vậy cần tăng cường sự cởi mở, minh bạch, chia sẻ thông tin trong suốt quá trình xây dựng và thực hiện chính sách thuế, phí đối với hoạt động khoáng sản.
(*) Nguyên Trưởng ban Quản trị quốc gia, UNDP Việt Nam
(1) PWC, 2012: Corporate Income Taxes, Mining Royalties and Other Mining Taxes: A Summary of rate and rules in selected countries. Global mining industry update June 2012. www.pwc.com/gx/mining.
(2) Resource Governance Index, 2017. http://www.resourcegovernanceindex.org/country-profiles
(3) Duane Morris Viet Nam, 2015. https://blogs.duanemorris.com/vietnam/2015/07/24/mining-in-vietnam-and-the-message-isbetter-transparency-on-fee-and-tax -management-by-authorities/