ĐIỂM BÁO MẠNG
- Quốc tế: Bài học cho Việt Nam trong đàm phán với Trung Quốc về Biển Đông(GD 15/9/2018)-Chủ quyền và quyền lợi hợp pháp của quốc gia không ai được nhân nhượng(GD 14/9/2018)-Nhật Bản, Việt Nam kêu gọi Mỹ quay lại CPTPP(GD 14/9/2018)-Nạn nhân của thịnh vượng (KTSG 14/9/2018)- ở TQ-Người Việt ở Ba Lan trong mắt người bản xứ (BBC 13-9-18)-Không chỉ Mỹ, nhiều nước khác đang 'tẩy chay' TQ(BVN 15/9/2018)-Chính giới Mỹ và Anh lo cho tự do ngôn luận VN(BVN 14/9/2018)-
- Trong nước: Đề nghị khai trừ đảng cựu Chủ tịch Đà Nẵng Trần Văn Minh(GD 14/9/2018)-Ông Nguyễn Bắc Son 'độc đoán, gia trưởng, vô hiệu hoá cả Ban Cán sự Đảng' (VTC 13-9-18)-Kết luận thanh tra vụ Thủ Thiêm: ‘Lập lờ đánh lận con đen’ (RFA 13-9-18)-Những doanh nghiệp nào được hưởng lợi từ đất thu hồi của dân Thủ Thiêm? (GD 14-9-18)-Cuộc sống tạm bợ trong khu biệt thự bỏ hoang ở Sài Gòn (VnEx 15-9-18)-Lãnh đạo Facebook cam kết hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam(VNN 15/9/2018)-Kỷ luật cảnh cáo Trung tướng Công an Bùi Xuân Sơn(VNN 15/9/2018)-Liệt sĩ 30 năm trở về: Ôm ảnh thờ khóc ngất vì chồng quên tên vợ(VNN 15/9/2018)-Thư ngỏ về việc trả tự do cho ông Trần Huỳnh Duy Thức(BVN 15/9/2018)-
- Kinh tế: Dự án FLC ôm cả một vùng biển, ngư dân lo lắng(GD 15/9/2018)-Sắp đến thời tàu lửa tự lái (KTSG 15/9/2018)-Những “chiến binh” thông minh mùa mua sắm cuối năm (KTSG 15/9/2018)-Doanh nghiệp chuyển sang thuê văn phòng linh hoạt (KTSG 15/9/2018)-Vay tiền tù mù (KTSG 15/9/2018)-Để cuộc “đốt đuốc tìm người” không luẩn quẩn (KTSG 15/9/2018)-Biết lắng nghe phản biện để định hướng đúng (KTSG 15/9/2018)-Ban quản trị chung cư chưa phát huy vai trò (KTSG 14/9/2018)-Việt Nam tiếp tục nhập siêu từ Nhật Bản (KTSG 14/9/2018)-Mỹ giảm thuế chống bán phá giá cá tra Việt Nam (KTSG 14/9/2018)-Lập hiệp hội để thúc đẩy hình ảnh Việt Nam là "Bếp ăn của thế giới" (KTSG 14/9/2018)-Giá bánh Trung thu có bị "đẩy" cao? (KTSG 14/9/2018)-Công ty đa bào - mô hình của công ty tương lai? (KTSG 14/9/2018)-Nhà ở xã hội vẫn trong vòng luẩn quẩn (KTSG 14/9/2018)-Doanh nghiệp làm gì trong xu hướng đổi mới sáng tạo? (KTSG 14/9/2018)-Dự án Cái Lớn-Cái Bé: Lý do không thể phê duyệt (ĐV 14-9-18)-Nguyễn Ngọc Trân-
- Giáo dục: Về "âm mưu tấn công" thầy Hồ Ngọc Đại (GD 14/9/2018)-'Nhận xét hoang tưởng là hạ thấp nhân cách chính mình'(VNN 15/9/2018)-yk Nguyễn Minh Thuyết-Nhiệm vụ cấp bách của giáo dục hiện nay là gì?(GD 14/9/2018)-"Nền giáo dục lớp 1" chỉ như khung trời nhỏ qua cửa sổ, dựa vào đâu mà vĩnh cửu? (GD 15/9/2018)-Sách VNEN cùng câu chuyện buồn của chị mua đồng nát(GD 15/9/2018)-Đề xuất tách đề thi quốc gia thành 2 phần: tốt nghiệp và thi đại học(GD 15/9/2018)-Trường Trung học Cơ sở Nghĩa Tân cam kết gì với học sinh học song bằng?(GD 15/9/2018)-Cô giáo Nhàn bị lũ cuốn mất nhà vẫn không nao núng (GD 15/9/2018)-Bộ Giáo dục phản đối nâng tầng để làm lớp học(GD 15/9/2018)-Phụ huynh Hải Phòng lo lắng khi cho con theo học tiếng Anh với người nước ngoài(GD 15/9/2018)-Phía sau những bản danh sách nghi sai phạm tại trường Cao Bá Quát là gì?(GD 15/9/2018)-Chuẩn giáo viên mới vẫn không khả thi(GD 15/9/2018)-Sách bài tập cấp tiểu học là nguyên nhân chính dẫn đến học thêm(GD 15/9/2018)-Đại học Y Dược Thái Bình khai giảng năm học mới(GD 15/9/2018)-Đây là danh sách các khoản không được vận động tài trợ ở trường học(GD 14/9/2018)-Tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư mới nhất(VNN 15/9/2018)-
- Phản biện: "Nền giáo dục lớp 1" chỉ như khung trời nhỏ qua cửa sổ, dựa vào đâu mà vĩnh cửu?(GD 15/9/2018)-Xuân Dương-Hà Sĩ Phu: ‘Bị Hán hóa là mất dân tộc’(BVN 15/8/2018)-Đinh Quang Anh Thái-Việt Nam : Chủ tịch Quốc Hội đề nghị xem lại thông tư cho dùng đồng yuan ở biên giới (BVN 15/9/2018)-Trọng Thành-Cuối cùng, Facebook cũng nói về Việt Nam(BVN 15/9/2018)-Trịnh Hữu Long- Sách Công nghệ giáo dục: Câu hỏi thẳng gửi giáo sư Hồ Ngọc Đại(TVN 14/9/2018)-Đoàn Văn Báu-Tuyên bố về vấn đề sách giáo khoa và cơ chế của ngành Giáo dục(BVN 14/9/2018)-Nhóm Lão Mà Chưa An-Ngang nhiên dùng Nhân dân tệ trên đất Việt Nam, tiền chạy thẳng về Trung Quốc(BVN 14/9/2018)-Lương Bằng-2018: Tử huyệt nợ xấu vẫn không thay hình đổi lốt(BVN 13/9/2018)-Phạm Chí Dũng
- Thư giãn: Thịt chó làm nóng cộng đồng mạng (KTSG 14/9/2018)-Đổi SIM 11 số về 10 số: Thông tin quan trọng giúp đảm bảo liên lạc(VNN 15/9/2018)-
VỀ 'ÂM MƯU TẤN CÔNG' THẦY HỒ NGỌC ĐẠI
HỒNG THỦY/ GDVN 15-9-2018
Thầy Hồ Ngọc Đại chia sẻ với truyền thông về công nghệ giáo dục, ảnh: VTV.vn.
Ngày 14/9 Báo Giao thông có bài phỏng vấn Giáo sư Hồ Ngọc Đại với tiêu đề "Họ lợi dụng tâm lý đám đông tấn công tôi" [1].
Thầy Hồ Ngọc Đại được Báo Giao thông dẫn lời, nhận định:
"Chắc chắn đứng sau cơn lốc dư luận này hẳn có âm mưu, bằng cách đánh trúng vào tâm lý đám đông luôn nhạy cảm với cách làm mới, lạ và đặc biệt là liên quan đến giáo dục…
Trong đám đông “nổi giận” ấy tôi phân làm 2 loại. Thứ nhất, những kẻ không đủ trình độ hiểu biết, thứ hai là kẻ có ý đồ xấu, đạo đức xấu.
Cũng chắc hẳn kẻ xấu xa đó muốn làm mọi việc để tôi tức giận. Nhưng tôi không thế sẽ khiến kẻ đó tức và sẽ đau hơn nhiều khi muốn làm hại người khác.
Tôi cũng tin chắc rằng, đằng sau vụ việc này có lợi ích nhóm. Vì chỉ tính riêng chuyện lớp 1 có hơn 1,1 triệu học sinh, nhưng riêng học sinh của tôi (theo chương trình giáo dục công nghệ) đã chiếm tới 800 nghìn.
Nhưng tôi cũng thấy mừng vì chính nhờ “cơn lốc” này mà nhiều người chưa biết về Công nghệ giáo dục của tôi đã mày mò tìm hiểu. Để khi nghe rồi, biết rồi thì họ không “chửi” công nghệ giáo dục của tôi nữa mà thậm chí hưởng ứng với điều này."
Ai tạo sóng?
Chúng tôi tôn trọng quan điểm, nhận định của thầy Hồ Ngọc Đại vì mỗi người có một cách nhìn riêng. Ở đây, chúng tôi xin góp vài lời để cùng bạn đọc lý giải xem, liệu có hay không một "âm mưu tấn công" nhằm vào thầy Hồ Ngọc Đại từ một nhóm lợi ích?
Trước hết, xin nhắc lại sự kiện đóng vai trò "mồi lửa" châm ngòi cho những tranh cãi bất tận trên mạng xã hội, và sau đó là trên truyền thông về cách đánh vần theo Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục.
Ngày 25/8, Trường Tiểu học Dương Đông 1, huyện Phú Quốc tỉnh Kiên Giang tổ chức họp phụ huynh. Cô giáo Đỗ Thị Phương Trang, giáo viên chủ nhiệm lớp 1/3 đã hướng dẫn cha mẹ học sinh cách đánh vần theo sách Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục.Một vị cha mẹ học sinh đặt câu hỏi: "Đây có phải chương trình mới phải không cô? Có phải của ông Bùi Hiền phải không cô?".
Cô giáo Đỗ Thị Phương Trang trả lời, đây không phải cách đánh vần của Phó giáo sư Bùi Hiền, mà là cách đánh vần theo Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại.
Theo báo cáo của Trường Tiểu học Dương Đông 1, cô giáo Đỗ Thị Phương Trang hướng dẫn không có gì sai theo tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục. [2]
Ảnh chụp màn hình phóng sự của VTV.
Tuy nhiên, việc cha mẹ học sinh tải clip này lên mạng internet đã tạo nên một làn sóng tranh luận và chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội.
Như vậy, việc cha mẹ học sinh trong trường hợp trên thấy lạ lẫm với cách đánh vần theo Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục của thầy Hồ Ngọc Đại, thậm chí nhầm lẫn nó với ý tưởng cải cách chữ cái tiếng Việt của Phó giáo sư Bùi Hiền, là một việc ngẫu nhiên.
Chúng tôi không nhìn thấy bất cứ bàn tay nào có thể can thiệp vào việc này. Khi clip được tải lên mạng xã hội Facebook, nó lập tức được chia sẻ chóng mặt.
Lý do là gì thì chính thầy Hồ Ngọc Đại đã giải thích, rằng "tâm lý đám đông luôn nhạy cảm với cách làm mới, lạ và đặc biệt là liên quan đến giáo dục".
Vấn đề đặt ra là, một tài liệu, một phương pháp hay một công trình đã tồn tại suốt 40 năm mà vẫn "mới, lạ" với số đông, nay lại được triển khai đại trà, ồ ạt mà cha mẹ học sinh không hay biết con mình bị "thí điểm", thì phản ứng của họ đâu có gì lạ?
Chỉ có cha mẹ nào dửng dưng khi biết con mình đang bị "thí điểm", mới là chuyện lạ.
Nếu có tổ chức / cá nhân phải chịu trách nhiệm về việc này, thì đó chính là Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo dục tiểu học và người đã giúp thầy Hồ Ngọc Đại "lách luật".
Trong làn sóng phản ứng, chỉ trích ấy, có rất nhiều người gán ghép công trình của thầy Hồ Ngọc Đại với thầy Bùi Hiền;
Nhiều tài khoản Facebook cắt ghép và chế thành các clip để thu hút lượt xem, cái có thể mang lại cho chủ tài khoản một khoản tiền quảng cáo không nhỏ.
Cũng phải nói một cách sòng phẳng, những phát biểu đầy đủ của thầy Hồ Ngọc Đại với VTC14 ngày 28/8 được nhà báo kênh này chia sẻ trên Facebook càng khiến nhiều người hiểu lầm thầy hơn, khi các bậc cha mẹ nghe thầy nói, họ biết gì mà dạy?
Từ thời Bình dân học vụ, người biết chữ dạy người chưa biết chữ, trong nhà ông bà, cha mẹ kèm cặp con em mình học hành là lẽ thường tình.
Giáo dục thế hệ trẻ là trách nhiệm của gia đình - nhà trường - xã hội. Bỗng dưng nay không ít cha mẹ học sinh bị chính Vụ Giáo dục tiểu học "tước" mất cái quyền ấy, vì con em họ "thí điểm" mà họ đâu hay biết?
Cha không bảo được con, ông không dạy được cháu cách đánh vần tiếng mẹ đẻ, họ bức xúc là điều dễ hiểu.
Ngày 8/9, thầy Hồ Ngọc Đại có cuộc chia sẻ trực tiếp với báo giới hơn 3 giờ đồng hồ, các tờ báo này đã tường thuật trực tiếp trên tài khoản mạng xã hội của mình và video vẫn đang được chia sẻ trên mạng internet.
Bên cạnh những câu chuyện rất hấp dẫn về đổi mới giáo dục và tư tưởng công nghệ giáo dục khai phóng của thầy Hồ Ngọc Đại, thầy còn có những phát biểu coi thường tất cả các nhà khoa học khác còn lại, rằng họ không biết gì.
Điều này có thể nhận được sự cổ vũ của một nhóm người, nhưng cũng gây ra sự phản cảm đối với không ít người khác.
Bậc thánh nhân như Khổng Tử, cũng luôn tự răn mình: "Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư" (trong 3 người đi cùng nhau tất có một người là thầy ta).
Thầy Hồ Ngọc Đại lại đang tự cho thấy điều ngược lại.Theo thiển ý của chúng tôi, chính cách tranh luận vượt ra ngoài các luận chứng khoa học với thái độ phủ đầu người khác như vậy, có dẫn đến tranh cãi, phản cảm cũng là điều dễ hiểu.
Trước những lời lẽ chỉ trích vượt quá chuẩn mực và sự gán ghép cố tình hoặc do không hiểu công trình của 2 nhà khoa học này, chúng tôi cũng có lời góp ý trong bài Đừng xúc phạm thầy Hồ Ngọc Đại và thầy Bùi Hiền.
Nhưng tất nhiên, không ai có thể ngăn được cơn lốc ấy trừ thời gian, khi tính nóng của sự kiện giảm dần và dư luận mạng xã hội lại chú ý vào một vấn đề khác.
Nhóm "lợi ích nhân dân"
Thầy Hồ Ngọc Đại suy luận rằng, đằng sau những ồn ào xung quanh cách đánh vần theo Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục này có "lợi ích nhóm".
Ảnh chụp màn hình clip thầy Hồ Ngọc Đại chia sẻ với truyền thông trên Youtube.
Phó giáo sư Nguyễn Lân Hiếu cũng chung nhận định này, thầy còn "quyết lôi ra ánh sáng nhóm lợi ích định xóa sổ công nghệ giáo dục để độc quyền bán sách giáo khoa".
Chúng tôi đã có mấy lời trao đổi với thầy Lân Hiếu qua bài viết Về lợi ích nhóm đằng sau tranh luận xung quanh Giáo sư Hồ Ngọc Đại.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin có đôi lời trao đổi tiếp về nhận định của thầy Hồ Ngọc Đại, rằng: "Cơn bão tấn công tôi xuất phát từ lợi ích nhóm".
Vậy trong lĩnh vực phát hành sách giáo khoa và tài liệu sử dụng tương đương sách giáo khoa, có những nhóm lợi ích nào?
Trước khi xảy ra những ồn ào này, chúng tôi đã từng có bài phân tích: Miếng bánh sách giáo khoa và thế chân vạc "chia 3 thiên hạ";
Trong đó sách công nghệ giáo dục của thầy Hồ Ngọc Đại sau khi được chèn vào dự án VNEN, đã nhanh chóng phổ biến ra cả nước, tồn tại song song với bộ sách giáo khoa 2000.
Thời ông Ngô Trần Ái còn lãnh đạo Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, thì 3 nhóm này chung sống hòa bình, nước sông không phạm nước giếng, bởi suy cho cùng cả 3 đều cùng "1 chủ".
Nhưng khi ông Ngô Trần Ái nghỉ quản lý Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, lập công ty riêng viết sách giáo khoa cạnh tranh lại với cơ quan cũ, mới hình thành 2 nhóm lợi ích khác nhau thực sự.
46/56 thành viên ban phát triển chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đầu quân cho VEPIC - công ty tư nhân ông Ngô Trần Ái thành lập, trong đó có Tổng chủ biên và một số chủ biên.
Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có loạt bài phanh phui sự việc này, cho dù những người trong cuộc im lặng.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cũng đã lên tiếng, không có chuyện "chỉ định thầu" bộ sách giáo khoa mới cho đơn vị nào. Vậy thì còn "nhóm lợi ích" nào có thể "tấn công" thầy Hồ Ngọc Đại?
Hơn nữa, nếu như nhóm làm sách giáo khoa 2000 có đầy đủ sách từ lớp 1 đến lớp 12, thì Công nghệ giáo dục của thầy Hồ Ngọc Đại mới dừng ở Tiếng Việt lớp 1 triển khai đại trà nhờ "lách luật" và một số tài liệu khác đang "thí điểm".
Nhưng riêng Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, theo thầy Hồ Ngọc Đại, cả nước có 1,1 triệu học sinh thì thầy Đại đã chiếm hơn 800 nghìn cháu (mà theo chúng tôi, là nhờ có Vụ Giáo dục tiểu học). [3]
Vậy là độc quyền sách giáo khoa và tài liệu tương đương sách giáo khoa, chỉ đang dịch chuyển từ nhóm này qua nhóm khác, hình thức này qua hình thức khác mà thôi.
Những phân tích của chúng tôi về cách thí điểm ồ ạt vô nguyên tắc, cách đặt vấn đề của chúng tôi rằng tại sao Bộ trưởng, Thứ trưởng lại giúp thầy Hồ Ngọc Đại "lách luật", ai hưởng lợi trong đường dây bán sách giáo khoa độc quyền khép kín, hoàn toàn xuất phát từ lợi ích của nhân dân.
Cũng giống như chúng tôi đã rất nhiều lần phân tích về các dự án thay sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo, kiến nghị Quốc hội giám sát hoạt động này, tất cả là vì lợi ích của người dân, không tổ chức, cá nhân nào được phép kiếm chác trên lưng những học trò thơ ngây và người dân lao động.
Ai hưởng lợi?
Thứ nhất, Báo Giao thông đặt câu hỏi với thầy Hồ Ngọc Đại:
Liên quan đến câu chuyện bản quyền sách giáo khoa, cũng như việc in ấn và phát hành sách, nhất là với sách giáo khoa Công nghệ giáo dục khá chuyên biệt này, nhiều người cho rằng ông có lợi ích trong đó?
Thầy Đại cho biết:
"Việc năm học nào cũng phải in sách mới cho trẻ, trẻ không dùng lại sách thừa từ anh chị đi trước, đó là quan điểm của tôi.
Trước đây, tôi từng đề nghị Thủ tướng Phan Văn Khải tặng sách cho toàn bộ học sinh lớp 1.
Bởi, bước vào lớp 1 là khởi đầu quan trọng đối với trẻ, cần dành cho trẻ những gì tốt nhất, mới nhất ví như quần áo mới, đồ dùng học tập mới trong đó là bút mới, cặp mới, sách mới… Trẻ xứng đáng được hưởng điều đó.
Có người cho rằng, đó là sự lãng phí, nhưng sâu xa họ không hiểu rằng những điều đơn giản thế thôi nhưng lại vun vén cho tâm hồn trẻ niềm hạnh phúc và niềm hạnh phúc ấy sẽ tiếp tục nảy nở đâm chồi trong suốt quãng đời tiếp theo của trẻ.
Chính vì vậy, năm nào tôi cũng yêu cầu học sinh phải được dùng sách mới là vì ý nghĩa đó chứ không phải vì in sách mới để có tiền. Bởi, tôi cũng không hưởng lợi từ điều đó. Điều tôi quan tâm nhất là trẻ đến trường có hạnh phúc, có vui vẻ hay không." [1]
Chúng tôi nhận thấy, lập luận của thầy Hồ Ngọc Đại tự nó đã mâu thuẫn nhau: in sách mới hàng năm là để tặng trẻ em, nhưng thực tế Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục cha mẹ các cháu đều phải bỏ tiền mua.
Có cháu mới sắp "tốt nghiệp" mẫu giáo 5 tuổi, bố mẹ chúng đã phải đăng ký với nhà trường, nếu không muốn sang năm không có Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục để học.
Thứ hai, thầy Hồ Ngọc Đại nói với Báo Trí thức trẻ: "Sách công nghệ giáo dục của tôi chỉ có một cuốn, không có sách bổ trợ." [4]
Thế nhưng Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam lại thông qua các sở, phòng giáo dục và đào tạo địa phương, các trường tiểu học để tiếp thị trọn gói 3 cuốn Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục và 15-18 cuốn khác cùng đồ dùng ăn theo.
Chúng tôi đã đặt câu hỏi, rằng thầy Hồ Ngọc Đại có phải cổ đông sáng lập Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển trường phổ thông công nghệ giáo dục - đơn vị phân phối độc quyền Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục và các tài liệu ăn theo, hay không?
Nếu có, thì hiện nay thầy Hồ Ngọc Đại đang nắm bao nhiêu cổ phần?
Những câu hỏi cụ thể như thế này chúng tôi từng đặt ra với thầy Nguyễn Minh Thuyết, thầy Hồ Ngọc Đại, thầy Phạm Vũ Luận, thầy Nguyễn Vinh Hiển, thầy Lê Tiến Thành, thầy Phạm Ngọc Định...và cả các chuyên viên của Vụ Giáo dục tiểu học, nhưng không bao giờ nhận được câu trả lời.
Trên mặt các báo, chỉ thấy các câu chuyện hấp dẫn về Trường Thực nghiệm trong những bài phỏng vấn thầy Hồ Ngọc Đại, tuyệt nhiên không thấy Giáo sư nhắc gì tới chuyện "lách luật" năm nào.
Thầy Hồ Ngọc Đại "thấy mừng vì chính nhờ “cơn lốc” này mà nhiều người chưa biết về Công nghệ giáo dục của tôi đã mày mò tìm hiểu. Để khi nghe rồi, biết rồi thì họ không “chửi” công nghệ giáo dục của tôi nữa mà thậm chí hưởng ứng với điều này.".
Nhưng rất nhiều bậc cha mẹ học sinh cũng đang "băn khoăn", không biết khi nào con em họ mới thoát kiếp "thí điểm", không biết đến bao giờ người dân lao động mới thoát cảnh năm nào cũng phải bỏ tiền mua sách mới cho con.
Nguồn:
[1]http://www.baogiaothong.vn/gs-ho-ngoc-dai-ho-loi-dung-tam-ly-dam-dong-tan-cong-toi-d271782.html
[2]https://anninhthudo.vn/chinh-tri-xa-hoi/c-k-q-deu-doc-la-co-la-voi-phu-huynh-khong-la-voi-bo-giao-duc/779947.antd
[3]http://daknong.edu.vn/wp-content/uploads/2016/09/4304_BGDDT_GDTH.pdf[4]https://vov.vn/xa-hoi/giao-duc/gs-ho-ngoc-dai-con-bao-tan-cong-toi-xuat-phat-tu-loi-ich-nhom-811133.vov
HỒNG THỦY
TIN BÀI LIÊN QUAN:
- Về lợi ích nhóm đằng sau tranh luận xung quanh Giáo sư Hồ Ngọc Đại
- Cuộc chiến sách Công nghệ giáo dục - sách giáo khoa 2000 chuyển hướng
- Thầy Đại, thầy Hiển có hưởng lợi từ tiền bán sách công nghệ giáo dục?
- VEPIC là sân sau của ai?
- Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết chọn cách im lặng?
- Thầy Hồ Ngọc Đại bàn về chương trình mới: cơ bản là để chia tiền
SÁCH CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC: CÂU HỎI THẲNG GỬI GIÁO SƯ HỒ NGỌC ĐẠI
ĐOÀN VĂN BÁU/ TVN 14-9-2018
Thư gửi Giáo sư Hồ Ngọc Đại
Giáo sư Hồ Ngọc Đại kính mến!
Lời đầu tiên, kính chúc Giáo sư luôn mạnh khỏe, tràn đầy nhiệt huyết, năng lượng tiếp tục cống hiến cho khoa học và nền giáo dục nước nhà.
Là người nghiên cứu về lĩnh vực Tâm lý học, tôi đã được nghe danh Giáo sư từ lâu và rất ngưỡng mộ Giáo sư về phẩm chất và năng lực, đặc biệt trên lĩnh vực khoa học, giáo dục… Giáo sư là Thầy của các thầy trên lĩnh vực Tâm lý học ở Việt Nam, trong số đó rất nhiều người là Thầy dạy tôi.
Trước đây, tôi đã từng nghe nói đến chương trình thực nghiệm, trường thực nghiệm với nhiều lời khen từ phụ huynh, học sinh, giới trí thức… nhưng chưa có dịp tìm hiểu kỹ. Vừa rồi, qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội… rất nhiều người quan tâm đến triết lý giáo dục, công nghệ giáo dục, sách Tiếng Việt công nghệ giáo dục… của Giáo sư. Tôi cũng cố gắng không để bị chi phối bởi những quan điểm, đánh giá của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào mà luôn tâm niệm phải đứng trên một quan điểm khách quan nhất để nhìn nhận nghiêm túc về vấn đề này. Và, cho dù có cố gắng đến đâu tôi vẫn luôn dành sự thiện cảm, trân quí, ngưỡng mộ dành cho Giáo sư nên cũng bị chi phối nhất định theo hướng tìm ra những điểm tích cực trong triết lý giáo dục, sách Tiếng Việt theo công nghệ giáo dục, qua các bài trả lời phỏng vấn mới nhất của Giáo sư.
Tối nay, tôi đã dành hơn 1 giờ để xem trọn bài phỏng vấn của Nhà báo Phạm Huyền với Giáo sư trên chương trình “Góc nhìn thẳng” của báo Vietnamnet. Trước đó tôi cũng xem nhiều bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư, bản thân đã đi tìm kiếm, nhờ bạn bè tìm kiếm để có được cuốn sách “Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục” nhưng thực sự không thể tìm ra vì không có nhà sách nào ở Tp HCM bán, phải nhờ bạn bè ở 50 tỉnh đã triển khai chương trình công nghệ giáo dục kiếm hộ may ra mới có.
GS Hồ Ngọc Đại. Ảnh: Đ.T
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nhưng có lẽ do hạn chế về năng lực, trình độ nên cho đến nay mặc dù đã nắm được, thông suốt một số vấn đề cơ bản nhưng bên cạnh đó cũng còn một số vấn đề còn chưa rõ, cần Giáo sư giải đáp.
Trước hết, tôi khẳng định, tôi hoàn toàn ủng hộ cách dạy tiếng Việt một cách khoa học, đi vào bản chất, dạy ngữ âm trước, dạy ngữ nghĩa, ghép vần, ngữ pháp, văn phạm sau. Đây là cách học ngôn ngữ một cách tự nhiên nhất và hầu hết các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới đều làm như vậy và đã làm như vậy có khi trước cả khi Giáo sư dạy học theo công nghệ giáo dục.
Tôi cũng hoàn toàn ủng hộ triết lý giáo dục của Giáo sư với mục tiêu “Giáo dục để học sinh trở thành chính mình” và càng ủng hộ hơn với khẩu hiệu “Học tập là hạnh phúc. Mỗi ngày đến trường náo nức một ngày vui”. Và, đặc biệt, tôi rất ủng hộ Giáo sư về việc đánh giá kết quả học tập của học sinh, không chạy theo thành tích, bằng cấp như hiện nay.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu về nội dung sách “Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục” và các bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư, tôi thực sự chưa rõ một số vấn đề sau, rất mong giáo sư giải đáp.
1. Chương trình “Công nghệ giáo dục” của giáo sư có phải là chương trình thực nghiệm hay dạy đại trà?
Thực tế, có nhiều công trình khoa học trên thế giới thực hiện thực nghiệm khoa học trong một thời gian dài, có khi trên 40 năm. Tuy nhiên, để tiến hành thực nghiệm một giải pháp mới, nhà khoa học cần phải đo chuẩn đầu vào, đánh giá đầu ra để kiểm nghiệm xem giải pháp có tính khả thi hay không. Nếu thực sự giải pháp khả thi mới được triển khai, nhân rộng.
Vậy, xin hỏi Giáo sư, trong số 800.000 học sinh đã học qua công nghệ giáo dục, đã tiến hành kiểm tra đánh giá chất lượng đầu vào, đầu ra chưa để khẳng định hiệu quả vượt trội của giải pháp dạy theo công nghệ giáo dục của giáo sư. Về việc này, Bộ Giáo dục cũng đã thông tin đã đánh giá và có nhiều kết quả tích cực nhưng vẫn cần hoàn thiện, nhưng cụ thể như thế nào có lẽ cần phải công bố rõ.
Mặt khác, chương trình Công nghệ giáo dục đã dạy cho 800.000 học sinh suốt 40 năm qua ở 49 tỉnh thành như vậy có còn mang tính thực nghiệm hay là dạy đại trà. Phụ huynh có được quyền lựa chọn chương trình học, sách giáo khoa cho con mình hay không hay bị áp đặt. Nếu cần mua sách công nghệ giáo dục mua ở nhà sách nào hay phải đăng ký theo chương trình. Như vậy có phải là độc quyền, áp đặt không?
Mặt khác, chương trình Công nghệ giáo dục đã dạy cho 800.000 học sinh suốt 40 năm qua ở 49 tỉnh thành như vậy có còn mang tính thực nghiệm hay là dạy đại trà. Phụ huynh có được quyền lựa chọn chương trình học, sách giáo khoa cho con mình hay không hay bị áp đặt. Nếu cần mua sách công nghệ giáo dục mua ở nhà sách nào hay phải đăng ký theo chương trình. Như vậy có phải là độc quyền, áp đặt không?
Và, nếu người đề xuất chương trình này không phải là Giáo sư mà là người khác, cho dù chương trình đó thực sự khoa học, hiệu quả, liệu có được tiến hành thực nghiệm trong 40 năm không. Phải chăng đó là sự ưu ái dành cho Giáo sư hay là vì lý do “các nhóm lợi ích” cản trở….
2. Giáo sư có thực hiện đúng triết lý giáo dục của Công nghệ giáo dục hay không?
Mục tiêu giáo dục của Công nghệ giáo dục là “Giáo dục để học sinh trở thành chính mình”, cũng có nghĩa là khuyến khích sự sáng tạo, hứng thú của học sinh. Nhưng trong nhiều bài phỏng vấn, giáo sư luôn phát biểu “Chương trình công nghệ giáo dục sẽ tồn tại vĩnh viễn”. Theo quan điểm duy vật biện chứng, không có gì là tuyệt đối, sự vật, hiện tượng luân vận động, biến đổi. Chương trình giáo dục cũng vậy, làm sao Giáo sư có thể biết chắc tương lai của thế giới sẽ như thế nào để cho rằng chương trình của mình tồn tại vĩnh viễn.
Giáo sư cũng cho rằng, mỗi người một việc, phụ huynh không được can thiệp vào việc học của học sinh, việc học của học sinh là do thầy cô lo. Giáo sư còn nhấn mạnh: “Học sinh học theo thầy cô, thầy cô học theo tôi, từ tôi mà ra”. Như vậy, thầy cô học theo Giáo sư có tư duy sáng tạo không nếu chỉ nghe theo thầy mình? Học sinh học theo thầy cô đó của Giáo sư liệu có sáng tạo được không?
Trẻ đến trường không chỉ học tri thức, phương pháp, kỹ năng mà còn học nhiều điều khác nữa, trong đó có học từ gia đình, xã hội, sáng tạo cũng từ đó mà ra. Vậy, cứ phó mặc việc học của trẻ cho thầy cô, tương lai các em trở thành chính mình như thế nào, ai là người chịu trách nhiệm.
Trẻ đến trường không chỉ học tri thức, phương pháp, kỹ năng mà còn học nhiều điều khác nữa, trong đó có học từ gia đình, xã hội, sáng tạo cũng từ đó mà ra. Vậy, cứ phó mặc việc học của trẻ cho thầy cô, tương lai các em trở thành chính mình như thế nào, ai là người chịu trách nhiệm.
Giáo sư cũng nhấn mạnh nếu với những con người hiện tại (trừ Giáo sư) cho dù có biên soạn chương trình, sách giáo khoa mới cũng vẫn theo lối cũ, vẫn là nền giáo dục “Ảo tưởng”. Có lẽ Giáo sư đã cạn kiệt niềm tin vào đội ngũ các nhà khoa học giáo dục ở Việt Nam nên mới có suy nghĩ như vậy. Tuy nhiên, theo tôi cho dù đó là ai, kể cả là người bảo thủ nhất vẫn có khả năng sáng tạo nếu chúng ta khơi dậy khả năng này ở họ. Nhận định như vậy, có lẽ sẽ làm cho nhiều người buồn lòng.
Giáo sư là cha đẻ của “Công nghệ giáo dục” nhưng trong tư duy, lời nói đều thể hiện sản phẩm của mình là bất biến. Điều này làm cho tôi nghi ngờ về tính sáng tạo của Công nghệ dạy học.
3. So với chương trình giáo dục Tiểu học hiện hành, chương trình “Công nghệ giáo dục” của Giáo sư hiệu quả như thế nào?
Giáo sư nhiều lần cho rằng, học sinh học theo công nghệ giáo dục chỉ cần 1 năm biết viết tiếng Việt, 2 năm viết chuẩn, 3 năm viết hay, tuyệt đối không tái mù, trong khi học sinh học theo chương trình hiện hành đang học đánh vần, các em học theo công nghệ giáo dục đã biết làm thơ lục bát…
Trong 800.000 học sinh của giáo sư hiện nay, có ai viết sai chính tả, văn phạm, ngữ pháp, viết hay như thế nào? Giáo sư đã khảo sát chưa? Đã đánh giá, so sánh giữa học theo chương trình hiện hành và công nghệ giáo dục chưa? Trong số những người viết chưa đúng, chưa hay tiếng Việt có bao nhiêu người là học sinh học công nghệ giáo dục và học theo chương trình hiện hành?
Thậm chí, nếu Giáo sư đồng ý, giáo sư có thể cho tôi đọc bất kỳ một công trình nào của mình mà Giáo sư hài lòng nhất để tôi tìm ra lỗi chính tả, câu, đoạn văn chưa hay… tôi dám cam đoan sẽ có những lỗi đó. “Văn mình, vợ người” nên ai chả khen mình viết hay. Thực ra, văn bản nào hầu như cũng có lỗi, như vậy mới cần hoàn thiện, đó là nguyên lý của sự phát triển, chắc Giáo sư là người rõ điều này hơn tôi.
Một học sinh có trở thành chính mình hay không, giai đoạn học tiểu học là rất quan trọng, là nền tảng như lời Giáo sư nói. Tuy nhiên, để “trở thành chính mình” còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nữa, mà giáo dục (trong đó có giáo dục ở nhà trường, gia đình và xã hội) chỉ đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, theo tôi, cần phải khảo sát, đánh giá hiệu quả của 2 chương trình song song này mới có thể nhận định, đánh giá chính xác, không nên võ đoán, vội vàng phê phán. Và, càng không nên phủ định sạch trơn những thành quả của chương trình cũ mặc dù rõ ràng cách dạy học, chương trình học tiểu học hiện nay còn nhiều điểm hạn chế.
4. Nội dung sách “Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục” có những điểm bất cập, hạn chế nào?
Thực tế, nhiều người phê phán nội dung sách “Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục” dùng nhiều từ địa phương, ít sử dụng các tác phẩm văn học học kinh điển, sử dụng các câu chuyện dân gian, tiếu lâm, châm biếm, thậm chí xúc phạm đến địa phương (Câu chuyện Cá Gỗ)…
Trong chương trình của Vietnamnet, nhà báo đã nhắc lại câu hỏi đến 2 lần xoáy sâu vào vấn đề hạn chế về nội dung của sách “Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục” theo phản ánh của đọc giả. Lần đầu tiên, Giáo sư trả lời không đúng trọng tâm, lần thứ 2 Giáo sư trả lời qua loa rằng “Năm nào tôi cũng điều chỉnh. Việc người lớn phản ánh nội dung hạn chế, dạy trẻ tật xấu là do người lớn nghĩ ra, trẻ không nghĩ như vậy”.
Thiết nghĩ, các từ, câu, tác phẩm văn học… dùng trong sách này chỉ nhằm mục đích minh họa cho việc học tiếng Việt. Tuy nhiên, ở đây không đơn thuần chỉ là dạy tiếng Việt mà cần phải để trẻ cảm thụ các tác phẩm hay, câu chuyện hay, đặc biệt không phổ biến các nội dung có ý châm biếm vùng miền, từ ngữ địa phương. Tôi có cảm giác, tác giả do muốn “đạp đổ” cả chương trình cũ, nên không muốn sử dụng những nội dung của chương trình cũ và quá lạm dụng các câu chuyện tiếu lâm nhằm mục đích gây cười.
Trên đây là 4 vấn đề tôi chưa rõ, rất mong Giáo sư chỉ bảo để tôi có thể hiểu rõ, từ đó toàn tâm, toàn ý ủng hộ chương trình Công nghệ giáo dục của Giáo sư. Do tôi học theo chương trình giáo dục hiện hành, chưa được học qua Công nghệ giáo dục nên chắc chắn văn phong, ngữ pháp, chính tả, câu cú còn hạn chế, chưa đúng, chưa hay, rất mong Giáo sư thông cảm.
Xin chân thành cảm ơn Giáo sư. Một lần nữa kính chúc Giáo sư mạnh khỏe, an vui, tràn đầy nhiệt huyết, tiếp tục công hiến cho khoa học, giáo dục nước nhà.
Đoàn Văn Báu(độc giả)
TIN BÀI LIÊN QUAN:- Sao cứ thản nhiên ném đá vào tương lai?
- Sách Tiếng Việt 1 CNGD có xuất hiện trong chương trình phổ thông mới?
- "Học sách của GS Hồ Ngọc Đại, các em nhớ rất tốt"
- GS Hồ Ngọc Đại: Tôi dạy học sinh trở thành người bình thường
- Thứ trưởng Giáo dục khẳng định sức sống sách Tiếng Việt 1 của GS Hồ Ngọc Đại
'NHẬN XÉT HOANG TƯỞNG LÀ HẠ THẤP NHÂN CÁCH MÌNH'
PHẠM HUYỀN /VNN 15-8-2018
GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình Giáo dục phổ thông mới là vị khách thứ ba trong chuyên đề talk về Công nghệ giáo dục tại chương trình Góc nhìn thẳng.
Trước đó, GS Hồ Ngọc Đại, chủ biên sách Công nghệ giáo dục và TS Phạm Tất Thắng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội đã lần lượt có buổi chia sẻ trực tuyến về vấn đề này.
Ở phần I, GS Thuyết đã chia sẻ về mọi nghi ngại liên quan đến cá nhân mình trong các cuộc tranh cãi về sách Công nghệ giáo dục.
Năm học tới, Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ bắt đầu thực hiện chủ trương "Một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa" với chương trình giáo dục phổ thông mới. Đây là mối quan tâm lớn của phụ huynh, học sinh.
Thế nhưng ngay từ đầu năm học này, những ồn ào về chương trình giáo dục phổ thông ở cấp tiểu học nổ ra xoay quanh những ưu nhược điểm giữa chương trình SGK tiểu học đại trà và chương trình SGK Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại thực nghiệm.
Và không ít ý kiến cho rằng, phải chăng những ồn ào đó trên cộng đồng mạng là do có lợi ích nhóm ở đây, khi các bộ sách giáo khoa sắp tới sẽ phải thẩm định và cạnh tranh nhau để được thông qua?
Nói về các hoài nghi không mấy tốt đẹp về phe phái giữa các nhóm biên soạn, GS Nguyễn Minh Thuyết phân tích: "Bộ SGK Công nghệ giáo dục Tiếng Việt 1 theo như tác giả nói đã được vào cả nghìn trường rồi, một nửa số học sinh học rồi thì không có lý do gì mà các tác giả biên soạn SGK hiện hành đại trà phải phản đối?"
"Sách này cũng không liên quan đến Chương trình mới thì tại sao phải ngăn cản?"
GS Thuyết chia sẻ: "Nếu người lớn nói điều gì thì phải suy nghĩ chín chắn, chứ nếu tưởng tượng như thế thì... Nhà văn viết sách hoang tưởng thì tôi thấy hay, nhưng người lớn mà nói như thế thì là chính mình hạ thấp nhân cách của mình'.
GS Nguyễn Minh Thuyết chia sẻ: "Chúng ta nhìn nhận về giáo dục mang tính định kiến rất nặng nề. Tôi cũng phải nói thẳng, nhiều khi là nói theo, không có căn cứ nào".
Tại buổi trực tuyến hôm 13/9, TS Phạm Tất Thắng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho rằng: Tư tưởng giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại là đúng đắn. Và trên thực tế, việc có tới 40 địa phương đang áp dụng chương trình công nghệ giáo dục đã cho thấy một minh chứng về chất lượng cao ở bộ sách và chương trình này.
Đặc biệt, TS Thắng cũng cho rằng, nếu duy trì một bộ sách giáo khoa và triển khai đồng loạt tất cả các thành phố, tỉnh, thành hiện nay sẽ tạo ra cách dạy dập khuôn, không phát huy năng lực cá nhân.
Tuy nhiên thời gian tới, để thẩm định sách giáo khoa, nâng cao chất lượng dạy và học thì Hội đồng thẩm định quốc gia cần có tham khảo, khảo sát ý kiến của phụ huynh, học sinh, giáo viên... là những người đã sử dụng sách.
Trước nữa, GS Hồ Ngọc Đại đã bày tỏ nhiều tâm tư thẳng thắn về nền giáo dục hiện nay tại chương trình Góc nhìn thẳng. GS Đại đề nghị cần có một cuộc khảo sát diện rộng để có sự "chấm điểm" công bằng, khách quan về các bộ sách giáo khoa.
Ông nhấn mạnh về tư tưởng, triết lý cốt lõi của ông về một nền giáo dục hiện đại, lấy học sinh làm trọng tâm, đề cao và khuyến khích sáng tạo cá nhân. "Nền giáo dục của tôi là để mỗi học sinh phải trở thành chính nó", ông nói.
Mọi ý kiến trao đổi về vấn đề này với các khách mời, xin gửi về email: gocnhinthang@vietnamnet.vn
'CƠN BÃO' ĐÁNH VẦN KÉO DƯ LUẬN ĐI LẠC HƯỚNG
HOÀNG DŨNG/ LĐCT/ BVN 17-9-2018
Thưa ông, theo quan điểm của nhà ngôn ngữ học, ông đánh giá ra sao về phương pháp dạy tiếng Việt ở cấp tiểu học của giáo sư Hồ Ngọc Đại hiện đang gây tranh cãi ồn ào trên mạng?
Có thể thấy tâm điểm của các cuộc tranh cãi là cách đánh vần. Rất nhiều người cho cách đọc của nhà trường hiện nay là đúng, còn phía cải cách của GS Hồ Ngọc Đại là sai.
Thực ra, cả hai cách đánh vần gần nhau hơn người ta tưởng vì cùng một nguyên tắc, dù là triệt để hay không triệt để. Nguyên tắc đó là đánh vần theo âm. Ngày trước, đánh vần kiểu “bê a ba” là cách gọi tên theo chữ, chứ không phải đánh vần theo âm. Bây giờ, kể cả GS Hồ Ngọc Đại lẫn nhà trường hiện nay đều đọc “bờ a ba”, từ bỏ cách đánh vần theo kiểu gọi tên con chữ bằng cách phát ra âm mà con chữ thể hiện.
Khác là chỗ, trong khi sách của GS Hồ Ngọc Đại nhất quán về nguyên tắc ngữ âm, thì sách hiện nay trong nhà trường tiểu học lại rẽ sang hướng khác, khi gán cho cách đánh vần – vốn chỉ có một mục đích là để học trò đọc được – thêm một nhiệm vụ nữa là giúp cho học trò sửa lỗi chính tả. Ca và kê đều có cùng một phụ âm đầu, nên theo đúng nguyên tắc ngữ âm, phải đánh vần “cờ a ca”, “cờ ê kê” như cách của GS Hồ Ngọc Đại. Nhưng sách của Bộ Giáo dục hiện hành chọn cách dạy “cờ a ca” nhưng “ca ê kê”. Đó là vì họ sợ học trò do đánh vần hai từ này như nhau mà viết cùng một chữ như nhau: ca, cê. Để tránh nguy cơ sai chính tả, họ hy sinh tính nhất quán của hệ thống, đánh vần theo cách gọi tên con chữ.
Thực ra có thể giải quyết theo một cách khác: chỉ cần dạy học sinh khi âm “cờ” đứng trước i, ê, e, thì viết chữ “k”.
Chuyện thiếu nhất quán như thế còn bộc lộ ở nhiều chỗ khác. Chẳng hạn, qua – vốn là [âm đầu “cờ” + âm đệm + nguyên âm a] – đánh vần theo ngữ âm như sách GS Hồ Ngọc Đại là “cờ oa qua”, còn sách hiện hành của Bộ Giáo dục là “quờ a qua”, do muốn dùng cách đánh vần để dạy chính tả. Đọc “qu” là “quờ” (gồm “cờ” + âm đệm) như một cái mẹo với mong muốn nhờ thế trẻ viết đúng chính tả, thì cũng không sao. Nhưng sách của Bộ Giáo dục chỉ gán âm đệm cho phụ âm đầu trong trường hợp âm đệm kết hợp với “cờ”, còn với các phụ âm khác thì âm đệm vẫn là một bộ phận của vần: qua là “quờ a qua”, nhưng hoa lại “hờ oa”, chứ không phải “huờ a hoa”. Hệ quả là, một cách logic, qua (vần a) phải được xem là không cùng vần với hoa (vần oa) – một điều trái với cảm thức của người Việt.
Tuy thế, nguyên tắc đánh vần theo ngữ âm không phải ổn thỏa trong mọi trường hợp. Điều này lộ ra rõ nhất ở trường hợp chữ quốc. Thầy Đại đọc “quốc” trong “quốc gia” là “cờ uốc cuốc”, hoàn toàn giống cái cuốc. Điều này đúng với với cách phát âm của người miền Bắc. Tuy nhiên, chữ này còn có hai cách đọc khác nhau – “quấc” ở miền Nam, ví dụ trong từ điển “Đại Nam quấc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Paulus Của và “quức” ở miền Trung, ví dụ ở Huế.
Như thế, người Việt không có địa phương nào đọc chữ “quốc” với âm đệm + vần uốc cả. Tóm lại, “quốc” là cách viết sai chính tả. Người đầu tiên phát hiện ra lỗi sai chính tả là một người Mỹ, ông M. B. Emeneau trong cuốn Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar năm 1951.
Tranh cãi về một điều quá cũ như thế phải chăng chúng ta nên bỏ cách đánh vần, thưa ông?
- Giữa thế kỷ 17, trường phái Port-Royal chủ trương bỏ cách đánh vần theo tên con chữ, để theo âm. Đánh vần theo cách nào, theo ngữ âm học hay theo cách đọc tên con chữ, là vấn đề xưa cũ ở châu Âu cách đây mấy thế kỷ mà giờ Việt Nam lại khơi dậy cuộc tranh cãi đó thì thật lạ.
Vấn đề ở chỗ, trên thực tế học xong đánh vần (theo bất cứ cách nào) là người ta quên sạch, khi đọc là đọc thẳng, chứ không hề đánh vần. Vậy thì, liệu có phải chăng không cần đánh vần? Mặt khác, có hàng vạn người nước ngoài học tiếng Việt mà không cần đánh vần. Bàn là “bàn” chứ không “bờ an huyền bàn”. Kết quả là người ta vẫn nói được tiếng Việt như thường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa hề có công trình nào nghiên cứu so sánh dạy không đánh vần và đánh vần cả. Một chuyện kéo dài mấy thế kỷ, tác động đến hàng triệu con em của chúng ta, thì không lý do gì mà giới nghiên cứu giáo dục không ai để tâm cả. Vấn đề thì có, mà nghiên cứu thì không. Vì sao? Chương trình rất chặt chẽ, đã bắt đánh vần thì giáo viên nào cũng phải tuân theo. Trẻ con đi học theo đúng chương trình của nhà nước, mà không cho đánh vần thì có mà chết à? Làm thế nào mà thực nghiệm giáo dục nếu hễ dạy khác đi là phạm luật?
Trong chương trình mới sắp được áp dụng, người ta đặt ra mục tiêu về năng lực, chứ không bó buộc về phương pháp. Khi đó, thầy cô giáo, nhà soạn sách giáo khoa muốn đánh vần theo cách nào hay không đánh vần đều được phép, miễn là đạt yêu cầu mà chương trình đề ra. Và những ai xem đây là một đề tài tử tế để nghiên cứu, đối chiếu, đưa ra kết luận, sẽ có điều kiện để thực hiện.
Qua câu chuyện “cơn bão” kỳ lạ về công nghệ giáo dục này, ông muốn lý giải điều gì?
- Từ đó, chúng ta nghĩ đến chuyện xa hơn: Giáo dục. Chỉ qua một chuyện nhỏ thế này thôi có thể thấy rằng khó lòng bắt kịp thế giới nếu chúng ta không thay đổi cơ chế. Cơ chế kín đến mức nó loại trừ, triệt tiêu mọi nghiên cứu, vì nghiên cứu thì phải thực hành và đối chứng, nhưng lại không cho áp dụng vào giáo dục. Điều đó dập tắt mọi tiến bộ.
Qua chuyện tranh cãi này, chúng ta nghĩ đến thấy chuyện lớn hơn – cơ chế giáo dục như thế này phải thay đổi, nếu không sẽ kìm hãm mọi tiến bộ trong giáo dục. Tôi hy vọng với chương trình mới, dù đúng sai vẫn còn phải tranh luận, dù ưu khuyết điểm vẫn còn phải tranh cãi, nhưng tiến bộ quan trọng nhất có tính bước ngoặt cần phải ghi nhận, là không bắt buộc người ta phải dạy bằng cách gì. Tôi cứ bùi ngùi nghĩ nếu chương trình này được áp dụng vào năm 1978, thì sách của GS Hồ Ngọc Đại không phải mất đến 40 năm nấp dưới danh nghĩa thử nghiệm.
Vì sao lâu nay người ta không nói đến, mà đợi trước khi tung ra bộ sách mới lại ào ào lao vào tranh cãi? Phải chăng ở đây có liên quan đến lợi ích nhóm?
- Tôi không muốn nói đến chuyện lợi ích nhóm vì khẳng định điều này cần phải có bằng chứng. Tôi chỉ thấy khó lòng giải thích theo một hướng.
Thực tế cho thấy thời nay người ta thích chê hơn khen. Bất chấp ai đó, dù người đó cao đến mấy nữa, nói nước mình có bao giờ được thế này chăng, trên mạng xã hội, người ta cũng không like – điều đó cho thấy não trạng của xã hội của ta đang nhìn về hướng nào. Não trạng này đang nhìn về thể chế xã hội – mà giáo dục là một bộ phận trong đó – theo hướng không tích cực, chủ yếu là chê bai. “Cơn bão” phê phán cách đánh vần chẳng qua thể hiện sự thất vọng – và đối với một số người là tuyệt vọng – về giáo dục. Sự thất vọng này không dừng lại ở nói năng: nó hành động. Người ta bán nhà, bán cửa cho con đi học nước ngoài, gọi là tỵ nạn giáo dục.
Một lý do khác: Không may là chuyện người ta đang bàn là chuyện đánh vần. Mà đánh vần thì ai cũng thấy mình có thẩm quyền để nói, vì ai mà chẳng đánh vần được! Lưu ý, sách của GS Hồ Ngọc Đại về dạy toán (ông vốn là TSKH ở bên Nga về đề tài dạy toán cho lớp 2), bị GS Nguyễn Tiến Dũng ở Đại học Toulouse (Pháp) cho là sai từ gốc, mà không tạo thành “bão”. Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng dẫn những ví dụ như học giải tích hàm, việc viết công thức Parceval cho chuỗi Fourier để phản bác GS Hồ Ngọc Đại, thì mấy ai hiểu để có thể tham gia tranh cãi!
“Cơn bão đánh vần” có cái hay là khiến cho người ta chú ý vấn đề mà trước đây họ không để tâm. Nhưng lại có cái dở là khiến người ta “thấy cây mà không thấy rừng”. Nếu GS Hồ Ngọc Đại dạy đánh vần sai đi chăng nữa, thì có ảnh hưởng đến hòa bình thế giới đâu? Rồi ai cũng đọc được cả mà! Người ta quên vấn đề lớn hơn – như đã nói – là cơ chế giáo dục cần thay đổi. Và như thế thì uổng lắm, chúng ta mất đi cơ hội hướng người đọc ngẫm cùng nhà nước cách làm sao cho ta hưởng một cơ chế giáo dục tốt hơn.
Xin cảm ơn ông.
---
H.D.
Hiện tượng bất thường
Gần đây, cách đánh vần trong sách giáo khoa CNGD trở thành chủ đề tranh cãi “như mổ bò” trong dư luận, che khuất các mảng tối của khủng hoảng giáo dục (như “phần nổi của tảng băng chìm”). Có hai hiện tượng bất thường đáng chú ý. Thứ nhất, trong khi công chúng bị phân hóa làm hai phe tranh cãi gay gắt, thì Bộ Giáo dục hầu như im lặng quá lâu một cách khó hiểu, như không liên can trách nhiệm. Thứ hai, trong khi tranh cãi phản ánh tâm trạng bức xúc của công chúng, như đống rơm khô dễ bắt lửa, nó bộc lộ tình trạng dân trí thấp.
Tuy vai trò sách giáo khoa rất quan trọng trong giáo dục truyền thống, nhưng nó không phải là yếu tố quyết định trong giáo dục khai phóng. Tại Việt Nam, sách giáo khoa trở thành vấn nạn đối với học sinh và phụ huynh, vì tình trạng độc quyền xuất bản và phát hành. Nói cách khác, sách giáo khoa đã bị thao túng bởi nhóm lợi ích vì lợi nhuận khổng lồ, nhưng chất lượng còn nghèo nàn vì chưa được coi trọng. Sách giáo khoa CNGD có lúc “bị dìm” vì dám cạnh tranh với sách truyền thống, nhưng có lúc “được nổi” vì sách CNGD có lợi.
Chắc mọi người còn nhớ hình ảnh phụ huynh đạp đổ cổng trường Thực nghiệm, để xông vào trường nộp đơn xin cho con học. Hình ảnh độc đáo đó đáng lẽ phải được đưa vào Guinness Book of World Records. Có thể nói với Gs Hồ Ngọc Đại rằng đây là một sự cố hy hữu, có giá trị quảng cáo còn hiệu quả lớn hơn bất cứ một ý tưởng quảng cáo chuyên nghiệp nào khác (mà lại không mất tiền). Nhưng thật là nghịch lý vì sau khi “ba chìm bảy nổi”, Gs Hồ Ngọc Đại nay lại đang bị dư luận “ném đá tơi bời” vì chính sự thành công của mình.
Không biết đó là quá trình “ba chìm bảy nổi” hay là “ba nổi bảy chìm” của chương trình thực nghiệm CNGD (của Gs Hồ Ngọc Đại). Nhưng nếu người ta chỉ chúi mũi vào tranh cãi về sách giáo khoa hay cách “đánh vần” (như “đánh vật”) dù vì lý do học thuật hay vì động cơ lợi nhuận, thì có thể bị lạc đường, vì “thấy cây mà không thấy rừng”. Trong khu rừng rậm giáo dục Việt Nam từ thời dựng nước (sau 1945), đã có quá nhiều phong trào: từ “bình dân học vụ” đến “bổ túc công nông”, đến “vừa hồng vừa chuyên”, đến “tiên học lễ hậu học văn”, đến “con ngoan trò giỏi”, đến “kiên cố hóa trường lớp”, đến “thực nghiệm CNGD”, v.v.
Trong lần tranh cãi này, không thấy dư luận bàn cãi về vai trò của giáo viên, tuy quan trọng không kém sách giáo khoa, cũng không thấy nói đến vai trò của Bộ Giáo dục (nhất là Bộ trưởng). Quan trọng hơn là không thấy nói đến vai trò của thể chế đã dẫn đến các vấn nạn đó, mà nay người ta hay gọi một cách văn hoa là “lỗi hệ thống”. Xét cho cùng, nếu lỗi ở sách giáo khoa, thì có thể thay sách. Nếu lỗi ở giáo viên thì có thể thay giáo viên. Nếu lỗi ở Bộ Giáo dục (hay Bộ trưởng) thì cũng có thể thay Bộ trưởng, nếu “chính phủ kiến tạo” thấy cần. Nhưng nếu do “lỗi hệ thống”, thì người ta có dám thay hệ thống và thể chế không?
Với văn hóa chụp giật của các các nhóm lợi ích thân hữu, chính sách giáo dục “từ trên xuống” (top down) và tình trạng dân trí thấp “từ dưới lên” (bottom up) đã làm thui chột nguồn nhân lực chất lượng cao để hội nhập quốc tế. Trung Quốc đã cất cánh về kinh tế vì cách đây hơn hai thập kỷ, họ đã quyết tâm đầu tư lớn cho giáo dục đại học, đặc biệt là các trường đứng đầu (như Bắc Kinh và Thanh Hoa) để đạt “đẳng cấp quốc tế”. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là yếu tố sống còn để phát triển, phải đổi mới thể chế và đầu tư đúng chỗ.
Chúng ta nói quá nhiều về khủng hoảng giáo dục (như cái ngọn) nhưng vẫn chưa đổi mới thể chế (là cái gốc). Nếu không thoát khỏi hệ tư tưởng giáo điều đã lỗi thời, coi thường trí thức, thì không thể nâng cao dân trí. Mọi cố gắng cải cách giáo dục chỉ luẩn quẩn và duy ý chí như tự cầm tóc nhấc mình lên. Nếu không từ bỏ tư duy độc quyền thì không thể bỏ được độc quyền giáo dục, và không thể kiểm soát được quyền lực. Độc quyền sách giáo khoa là một loại tham nhũng chính sách của các nhóm lợi ích được thể chế độc quyền bảo kê.
Hệ quả khó lường
Văn hóa-Giáo dục là hai lĩnh vực gắn liền với nhau như hình với bóng, và tương tác theo luật nhân quả. Giáo dục mà thiếu văn hóa làm nền cũng giống như làm nhà mà thiếu móng. Học gì và học thế nào thường liên quan đến giáo dục-đào tạo, nhưng học để làm gì thường liên quan đến văn hóa-tư tưởng. Thời trước, khi nói đến “khai dân trí và chấn dân khí”, chắc cụ Phan Châu Trinh nghĩ đến cả giáo dục-đào tạo và văn hóa-tư tưởng. Nhưng ngày nay, vào thời “mạt pháp” (theo phật lịch) thì văn hóa-giáo dục đang bị suy đồi và khủng hoảng.
Khủng hoảng giáo dục-đào tạo thường kéo theo khủng hoảng văn hóa-tư tưởng và khủng hoảng lòng tin. Khi mất lòng tin, môi trường sống bị ô nhiễm, môi trường giáo dục-đào tạo suy đồi và khủng hoảng, nhiều người (cả quan chức và trí thức) sẽ bỏ đất nước, tìm nơi khác cho gia đình cư trú như “tị nạn giáo dục” (thay vì “tị nạn chính trị”). Nhưng người ta không di cư sang Trung Quốc (vì đại cục “16 chữ vàng”), mà thường cho gia đình di cư sang Mỹ, Úc, Canada, và châu Âu, vì ai cũng muốn một môi trường sống và giáo dục an toàn.
Vậy điều gì đã xảy ra tại Việt Nam làm chất lượng giáo dục xuống cấp như vậy? Sau giải phóng (1954 tại Miền Bắc và 1975 tại Miền Nam), cách mạng đã phá bỏ mọi thứ của “đế quốc thực dân” (kể cả hệ thống giáo dục). Tại nhiều nước khác (như Ấn Độ) người ta không làm như vậy, mà vẫn giữ nguyên hệ thống giáo dục của Anh (hay Pháp). Chính vì vậy, cho đến nay hệ thống giáo dục của họ (về cơ bản) vẫn còn nguyên, nên chất lượng vẫn tốt.
Khi lập chính phủ thời VNDCCH, cụ Hồ cũng chú trọng đến giáo dục và văn hóa, nên chọn được các trí thức hàng đầu làm bộ trưởng, như ông Nguyễn Văn Huyên và Tạ Quang Bửu (Bộ Giáo dục) và ông Hoàng Minh Giám (Bộ Văn hóa). Tại Miền Nam, hệ thống giáo dục kiểu Pháp (về cơ bản) vẫn được duy trì đến 1975. Nếu so bộ trưởng giáo dục và văn hóa thời nay với thời trước thì hơi xấu hổ. Bằng cấp của họ tuy không thiếu (vì không giáo sư cũng tiến sỹ) nhưng chỉ thiếu văn hóa, nếu không ngọng tiếng Anh cũng ngọng tiếng Việt.
Lẽ ra khi phá cái cũ thì phải thay bằng cái mới tốt hơn, nhưng càng cải cách giáo dục, tình trạng suy thoái và tụt hậu về giáo dục càng tệ hơn. Cũng như kinh tế thị trường “định hướng XHCN”, Văn hóa-Giáo dục cũng phải “vừa hồng vừa chuyên”. Cách đây đã lâu, một lãnh đạo (hình như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng) nhận xét: “chất lượng giáo dục nước ta rớt nhanh như nhảy dù”. Khủng hoảng giáo dục nay đã trở thành vấn nạn quốc gia. Gần đây, cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng nói: “cán bộ yếu thì cho đi học, bắt cán bộ giỏi làm thay; đến khi bổ nhiệm thì nhờ có bằng cấp nên cán bộ yếu được đề bạt”. (Tuổi Trẻ, 18/7/2006).
Nếu ngành xây dựng “ăn nhà đất” và ngành giao thông “ăn cầu đường”, thì ngành giáo dục “ăn sách giáo khoa” và các đề án cải cách giáo dục. Tuy không biết ngành nào ăn to hơn và phá nhiều hơn, nhưng chỉ biết họ “ăn không chừa thứ gì” (lời bà Nguyễn Thị Doan). Nếu ngành y tế thiếu trách nhiệm, họ có thể làm nhiều người mất mạng hay tàn tật. Nếu ngành xây dựng làm hỏng vài tòa nhà và ngành giao thông làm hỏng vài con đường (là hạ tầng cứng), người ta có thể đập đi xây lại. Nhưng nếu ngành giáo dục làm hỏng một hai thế hệ (như hạ tầng mềm) thì không thể đập đi xây lại, và hệ quả của khủng hoảng giáo dục khó lường.
Nếu vấn nạn giao thông hay vấn nạn y tế có thể gây ra “đột tử” cho hàng trăm sinh mạng, thì vấn nạn giáo dục có thể gây ra “đẳng tử” (chết từ từ) cho một hai thế hệ (vì dân trí thấp). Không biết cái chết nào nguy hiểm hơn. Câu chuyện tụt hậu về kinh tế (so với nhiều nước trong khu vực) chắc chắn có nguyên nhân từ sự tụt hậu về chất lượng giáo dục-đào tạo. Suy thoái và tụt hậu về kinh tế hay công nghệ (là hạ tầng cứng) có thể làm lại và phục hồi trong một hai thập kỷ, nhưng suy thoái và tụt hậu về văn hóa và giáo dục, đạo đức và dân trí, (là hạ tầng mềm) thì rất khó phục hồi, có lẽ phải mất một vài thế hệ (hoặc không bao giờ).
Càng cải cách càng tụt hậu
Năm 2008, Bộ Giáo dục đã tổ chức đối thoại trực tuyến với dân một cách “rất cầu thị”, thừa nhận sai lầm trong chương trình dạy ngoại ngữ và “hứa sẽ cải tổ”. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân lúc đó đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTg, ngày 30/9/2008, duyệt kinh phí 10,000 tỷ đồng (gần 500 triệu USD) cho “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020” (gọi tắt là “Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020”). Theo chương trình này, đến năm 2020 “đa số thanh niên Việt Nam sẽ có đủ năng lực ngoại ngữ, biến ngoại ngữ thành thế mạnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong khuôn khổ triển khai đề án ngoại ngữ quốc gia đó, các tỉnh tranh thủ “tát nước theo mưa”. Long An duyệt chi 437 tỉ đồng, Kon Tum duyệt chi 135 tỉ đồng, Đà Nẵng duyệt chi 140 tỉ đồng. Không biết vì sao lại cần đến ngần ấy kinh phí, chẳng khác gì phong trào xây tượng đài. Sau 7 năm (kể từ khi ký duyệt) hay 5 năm kể từ khi bắt đầu triển khai giai đoạn hai (2011-2015), bức tranh toàn cảnh về đề án này đã dần lộ rõ chân tướng, làm dư luận bức xúc về tính hiệu quả. Nhiều người nghi vấn về động cơ tham nhũng, làm lãng phí ngân sách.
Việc cải tổ cách dạy tiếng Anh là rất cần, nhưng có cần một kinh phí khủng đến thế không (gần 500 triệu USD) khi Việt Nam còn nghèo và ngân sách đang cạn kiệt? Số tiền đó đủ để lập ra 5 trường đại học đẳng cắp quốc tế (như đại học Fulbright). Ông Lý Quang Diệu chắc cũng không dám chi nhiều đến như vậy cho Singapore, tuy ông ấy thường kêu gọi “học tiếng Anh là vấn đề số một” để tiếp tục phát triển đất nước giàu mạnh. Nhưng vấn đề không phải là mất bao nhiêu tiền, mà là được cái gì. Tại sao đầu tư lớn đến như vậy nhưng năng suất lao động của người Việt vẫn thấp nhất khu vực, và không có đủ nhân lực để hội nhập quốc tế?
Trong khi người dân còng lưng đóng thuế và trả nợ thay cho những đề án cải cách lãng phí khủng khiếp đó mà không được hưởng một nền giáo dục tử tế, thì các nhóm lợi ích thân hữu và các quan chức tham nhũng (là “đầy tớ nhân dân”) tiếp tục làm giàu, để rồi tuồn tiền ra nước ngoài cho con cháu họ du học và chuẩn bị “hạ cánh an toàn”. Đó là một nghịch lý đáng buồn. Không chỉ ngành giáo dục phải chịu trách nhiệm, mà các ngành khác (stakeholders) và các nhà tài trợ quốc tế (donors) cũng phải chịu một phần trách nhiệm liên đới.
Sau nhiều chương trình cải cách ồn ào, và nhiều “đề án quốc gia” hoành tráng, được vẽ ra chủ yếu vì kinh phí, nhưng lại “đầu voi đuôi chuột”, đâu lại hoàn đấy. Hàng năm, hơn 40% sinh viên tốt nghiệp đại học không có việc làm, hoặc không làm được việc, vì chất lượng đào tạo quá thấp và xa rời thực tế, không đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Kết cục là sinh viên tốt nghiệp vẫn thừa và thất nghiệp, trong khi các doanh nghiệp vẫn thiếu nhân lực. Người Việt “không thua kém ai” nhưng tại sao đất nước tiếp tục nghèo hèn và tụt hậu? Việt Nam có một cái mỏ người rất quý (hơn 90 triệu dân), nhưng đến nay vẫn không biết cách khai thác.
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để hội nhập quốc tế và có năng suất lao động cao hơn, phải nâng cao chất lượng giáo dục bằng cách nâng cao dân trí và xây dựng một xã hội công dân. “Xã hội hóa” chỉ là khẩu hiệu suông, nếu không thực sự đổi mới tư duy cải cách giáo dục. “Kiên cố hóa trường học” là một khẩu hiệu ngược đời, vì gía trị cốt lõi của giáo dục không phải là phần cứng (hardware) mà là phần mềm (software). Melinda Gates nói, “Chỉ trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giải quyết được những vấn đề giảng dạy…”.
Nói như vậy để thấy sự bất cập và phân liệt (dysfunctional) trong cơ chế quản trị đất nước. Một chính phủ “kiến tạo” không thể “trên nóng dưới lạnh” hay “trên bảo dưới không nghe” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” hay “tay phải, tay trái” khác nhau. Hàng năm, tại các Diễn đàn Kinh tế, đại diện ngành giáo dục có tham gia không? Các nhà quản trị và các doanh nghiệp có “đặt hàng” với ngành giáo dục hay không? Tại sao 40% sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, hoặc không làm được việc? Chẳng lẽ suy thoái và tụt hậu kinh tế không liên quan đến giáo dục-đào tạo? Chẳng lẽ khủng hoảng về đạo đức và nhân cách, tình trạng vô cảm và bạo lực đến mức báo động hiện nay trong xã hội không liên quan đến Văn hóa-Giáo dục?
Đi tìm triết lý giáo dục
Người ta hay nói đến cải cách giáo dục (như cái ngọn), nhưng vẫn ít đề cập đến triết lý giáo dục (như cái gốc). Trong khi tham khảo các triết lý giáo dục khác nhau, chúng ta thử đề cập đến một triết lý giáo dục (educational philosophy) được nhiều nước trên thế giới vận dụng (trong đó có Việt Nam). Đó là “lý thuyết kiến tạo” (Constructivism & Constructionism) do các nhà khoa học Jean Piaget (1896–1980) và Seymour Papert (1928-2016) đề xướng. Papert là học trò xuất sắc của Piaget, đã phát triển constructionism trên cơ sở constructivism. (*)
Theo Jean Piaget, lý thuyết constructivism giúp học sinh phát triển nhận thức (cognitive), qua thực nghiệm và quan sát (experience and observation), trong khi lý thuyết constructionism của Seymour Papert chú trọng thực hành (physical) thông qua “cách học thế nào” (learning how to learn). “Lý thuyết kiến tạo” cho rằng học sinh làm việc hiệu quả khi họ chủ động và tự giác làm ra những thứ hữu hình trong thế giới thực (maker place) bằng thực nghiệm, chú trọng đến cấu trúc sinh học hữu hình và những quy luật phổ quát của sự phát triển tri thức. Tuy lý thuyết này phát huy hiệu quả tốt với các lớp học sinh giỏi (và các lớp luyện thi), nhưng nó lại có nhược điểm là khó nhân rộng và khó áp dụng cho những lớp đông học sinh.
Các nguyên lý và tiêu chí cơ bản của “lý thuyết kiến tạo” là “học tích cực” (Active learning), “học bằng thực hành” (Learning by doing), “lấy học sinh làm trung tâm” (Student-centered), “học qua vấn đề” (Problem-based learning), “học qua dự án” (Project-based training), “học qua trải nghiệm” (Experiential learning), “học qua khám phá” (Discovery learning), “học bằng làm việc nhóm” (Group work in learning), “dạy trên cơ sở khảo cứu” (Inquiry-based teaching), “học qua kiến tạo và phối hợp” (Constructivism-based Blended learning)…
Lý thuyết kiến tạo (constructivism & constructionism) chú trọng tạo cơ hội cho học sinh học một cách tích cực (active educational opportunities), để phát triển văn hóa thực nghiệm (maker culture) trong các lĩnh vực “STEAM” bao gồm khoa học (science), công nghệ (technology), chế tạo (engineering), nghệ thuật (arts), và toán học (mathematics). Tại MIT, Papert đã lập ra Nhóm Nghiên cứu mà sau này đã trở thành “MIT Media Lap” nổi tiếng. Cũng chính tại MIT mà ông đã nghiên cứu và phát triển “lý thuyết kiến tạo” (constructionism).
Từ nghiên cứu trẻ em bắt đầu hiểu về thế giới thế nào (how children make sense of the world) Papert đã nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo để ứng dụng vào học, thông qua thiết kế và chia sẻ trong môi trường cộng tác (learning through designing and sharing within collaborative environments). Trong lý thuyết kiến tạo, học sinh sẽ học hiệu quả nhất nếu được tiếp cận tri thức cao hơn tại “vùng phát triển liền kề” (zone of proximal development).
Theo các nhà nghiên cứu, ý tưởng về “kiến tạo” (constructs) thực ra đã xuất hiện từ thời xa xưa, từ thời Phật Tổ (Buddha) và Lão Tử (Lao Tzu). Sau đó, ý tưởng này được các triết gia và học giả khác tiếp tục phát triển (như Khổng Tử, Socrates, Immanuel Kant, Chu Văn An). Vì kiến tạo là quá trình phát triển tự nhiên, nên các mô hình học tập thuở ban đầu thường dựa trên phương pháp kiến tạo. Sau này, các nhà nghiên cứu tâm lý giáo dục đã tìm cách kết hợp các lý thuyết khác nhau và gắn với thực tế cuộc sống. Trong cuốn sách “The Evolving Self” (Robert Kegan, Harvard University Press, 1982), Kegan đã tìm cách phát triển lý thuyết gắn kết đó vào lĩnh vực giáo dục (becoming embedded and emerging from embeddedness).
Tại Việt Nam, trường PTCS Thực nghiệm đã vận dụng “lý thuyết kiến tạo” từ 1978 (qua con đường Nga). Theo thống kê, đến 2013 đã có 1.591 học sinh tham gia các lớp thực nghiệm cấp tiểu học và THCS. Chương trình thực nghiệm được triển khai tại 1.447 trường tiểu học trên 63 tỉnh/thành. Tuy chương trình này được triển khai trên diện rộng, trong bốn thập kỷ qua, nhưng vẫn chưa được chính thức đánh giá và tổng kết để xác nhận tính phù hợp (conformity) với các tiêu chí của “lý thuyết kiến tạo” (ở cấp quốc gia hay quốc tế) để trở thành chính thống (như tại Nga), nên vẫn còn là thực nghiệm (chưa hoàn chỉnh), dễ gây tranh cãi.
Lời cuối
Đó không phải là lỗi của chương trình thực nghiệm CNGD (vì đó chỉ là một sáng kiến trong quá trình cải cách và xã hội hóa giáo dục) hay của người đề xướng (vì Gs Hồ Ngọc Đại chỉ là một nhà khoa học chứ không phải là nhà quản trị). Nếu chương trình thực nghiệm CNGD (của Gs Hồ Ngọc Đại) hay các chương trình khác như “Nhóm cách Buồm” (của nhà giáo Phạm Toàn) chưa hoàn chỉnh hay chưa hoàn thiện, vì thiếu nguồn lực và thiếu hỗ trợ, thì đó không phải lỗi của họ, mà là “lỗi hệ thống” của Bộ Giáo dục và “chính phủ kiến tạo”. Đó là bức tranh giáo dục màu xám, với những khoảng tối khó lý giải và thật đáng tiếc. Lẽ ra, một đất nước với hơn 90 triệu dân là một cái mỏ nhân lực rất quý, thì nay là một gánh nặng. Sắp tới, khi trí tuệ nhân tạo (AI) và người máy phát triển, vấn đề nhân lực chắc còn nan giải hơn.
Trong khi đó, bức tranh về văn hóa cũng không khá hơn. Theo thống kê của bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch, hàng năm nước ta có tới 7.966 lễ hội (Lao Động, 5/3/2018). Hầu hết các lễ hội đó không những tốn kém kinh phí và lãng phí thời gian, mà còn thiếu văn hóa và thừa bạo lực. Bên cạnh “hội chứng lễ hội” (như “cờ đèn kèn trống”), Việt Nam còn nổi tiếng vì “hội chứng tượng đài”. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Việt Nam có hơn 400 tượng đài có vốn đầu tư khoảng vài chục tỷ đến vài trăm tỷ VNĐ, thậm chí có dự án đến hàng ngàn tỷ VNĐ, không những làm cạn kiệt ngân sách quốc gia, mà còn làm méo mó hình ảnh đất nước. Ngoài ra, Việt Nam có quá nhiều cuộc thi hoa hậu đến mức phản cảm (với nhiều tai tiếng). Nói cách khác, tham nhũng và suy thoái về văn hóa-giáo dục đang làm xói mòn các giá trị cốt lõi.
NQD. 17/9/2018
(*) Nhân đây, tôi xin nhắc lại một sự cố đáng tiếc đã xảy ra với Gs Seymour Papert khi ông đến Hà Nội dự một hội nghị toán học quốc tế (ICMI, Hanoi Dec. 2006). Có lẽ nhiều người Việt Nam đã quên mất sự cố bất hạnh đã xảy ra với nhà khoa học này (lúc đó đã 78 tuổi). Chắc họ quá mải mê tranh cãi về sách giáo khoa CNGD nên quên mất tác giả của “lý thuyết kiến tạo”. Seymour Papert không chỉ quan tâm đến toán học và phát triển “trí tuệ nhân tạo”, mà còn tìm cách ứng dụng công nghệ mới vào khoa học giáo dục, và muốn góp phần tháo gỡ vấn nạn ách tắc giao thông tại Hà Nội (mà bây giờ người ta sính gọi là 4.0).
Trong khi Papert đang nghĩ cách ứng dụng “lý thuyết tổ ong” (beehive theory) vào giải pháp tháo gỡ ách tắc giao thông Hà Nội, ông đã bị một xe máy đâm khi qua đường, gây chấn thương sọ não, phải cấp cứu tại bệnh viện Việt-Pháp một tuần trước khi được đưa về Mỹ. Thật trớ trêu thay, Papert đã trở thành nạn nhân của chính vấn nạn mà ông tìm cách tháo gỡ. Sau khi được đưa về Mỹ điều trị, tuy ông đã may mắn thoát chết nhưng bị tàn tật và sống thêm gần 10 năm. Seymour Papert đã mất ngày 31/7/2016 (tại Blue Hill, Maine).
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 17-9-18
GIÁO DỤC VIỆT NAM ĐANG ĐI VỀ ĐÂU ?
NGUYỄN QUANG DY/ viet-studies 17-9-2018
Gần đây, cách đánh vần trong sách giáo khoa CNGD trở thành chủ đề tranh cãi “như mổ bò” trong dư luận, che khuất các mảng tối của khủng hoảng giáo dục (như “phần nổi của tảng băng chìm”). Có hai hiện tượng bất thường đáng chú ý. Thứ nhất, trong khi công chúng bị phân hóa làm hai phe tranh cãi gay gắt, thì Bộ Giáo dục hầu như im lặng quá lâu một cách khó hiểu, như không liên can trách nhiệm. Thứ hai, trong khi tranh cãi phản ánh tâm trạng bức xúc của công chúng, như đống rơm khô dễ bắt lửa, nó bộc lộ tình trạng dân trí thấp.
Tuy vai trò sách giáo khoa rất quan trọng trong giáo dục truyền thống, nhưng nó không phải là yếu tố quyết định trong giáo dục khai phóng. Tại Việt Nam, sách giáo khoa trở thành vấn nạn đối với học sinh và phụ huynh, vì tình trạng độc quyền xuất bản và phát hành. Nói cách khác, sách giáo khoa đã bị thao túng bởi nhóm lợi ích vì lợi nhuận khổng lồ, nhưng chất lượng còn nghèo nàn vì chưa được coi trọng. Sách giáo khoa CNGD có lúc “bị dìm” vì dám cạnh tranh với sách truyền thống, nhưng có lúc “được nổi” vì sách CNGD có lợi.
Chắc mọi người còn nhớ hình ảnh phụ huynh đạp đổ cổng trường Thực nghiệm, để xông vào trường nộp đơn xin cho con học. Hình ảnh độc đáo đó đáng lẽ phải được đưa vào Guinness Book of World Records. Có thể nói với Gs Hồ Ngọc Đại rằng đây là một sự cố hy hữu, có giá trị quảng cáo còn hiệu quả lớn hơn bất cứ một ý tưởng quảng cáo chuyên nghiệp nào khác (mà lại không mất tiền). Nhưng thật là nghịch lý vì sau khi “ba chìm bảy nổi”, Gs Hồ Ngọc Đại nay lại đang bị dư luận “ném đá tơi bời” vì chính sự thành công của mình.
Không biết đó là quá trình “ba chìm bảy nổi” hay là “ba nổi bảy chìm” của chương trình thực nghiệm CNGD (của Gs Hồ Ngọc Đại). Nhưng nếu người ta chỉ chúi mũi vào tranh cãi về sách giáo khoa hay cách “đánh vần” (như “đánh vật”) dù vì lý do học thuật hay vì động cơ lợi nhuận, thì có thể bị lạc đường, vì “thấy cây mà không thấy rừng”. Trong khu rừng rậm giáo dục Việt Nam từ thời dựng nước (sau 1945), đã có quá nhiều phong trào: từ “bình dân học vụ” đến “bổ túc công nông”, đến “vừa hồng vừa chuyên”, đến “tiên học lễ hậu học văn”, đến “con ngoan trò giỏi”, đến “kiên cố hóa trường lớp”, đến “thực nghiệm CNGD”, v.v.
Trong lần tranh cãi này, không thấy dư luận bàn cãi về vai trò của giáo viên, tuy quan trọng không kém sách giáo khoa, cũng không thấy nói đến vai trò của Bộ Giáo dục (nhất là Bộ trưởng). Quan trọng hơn là không thấy nói đến vai trò của thể chế đã dẫn đến các vấn nạn đó, mà nay người ta hay gọi một cách văn hoa là “lỗi hệ thống”. Xét cho cùng, nếu lỗi ở sách giáo khoa, thì có thể thay sách. Nếu lỗi ở giáo viên thì có thể thay giáo viên. Nếu lỗi ở Bộ Giáo dục (hay Bộ trưởng) thì cũng có thể thay Bộ trưởng, nếu “chính phủ kiến tạo” thấy cần. Nhưng nếu do “lỗi hệ thống”, thì người ta có dám thay hệ thống và thể chế không?
Với văn hóa chụp giật của các các nhóm lợi ích thân hữu, chính sách giáo dục “từ trên xuống” (top down) và tình trạng dân trí thấp “từ dưới lên” (bottom up) đã làm thui chột nguồn nhân lực chất lượng cao để hội nhập quốc tế. Trung Quốc đã cất cánh về kinh tế vì cách đây hơn hai thập kỷ, họ đã quyết tâm đầu tư lớn cho giáo dục đại học, đặc biệt là các trường đứng đầu (như Bắc Kinh và Thanh Hoa) để đạt “đẳng cấp quốc tế”. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là yếu tố sống còn để phát triển, phải đổi mới thể chế và đầu tư đúng chỗ.
Chúng ta nói quá nhiều về khủng hoảng giáo dục (như cái ngọn) nhưng vẫn chưa đổi mới thể chế (là cái gốc). Nếu không thoát khỏi hệ tư tưởng giáo điều đã lỗi thời, coi thường trí thức, thì không thể nâng cao dân trí. Mọi cố gắng cải cách giáo dục chỉ luẩn quẩn và duy ý chí như tự cầm tóc nhấc mình lên. Nếu không từ bỏ tư duy độc quyền thì không thể bỏ được độc quyền giáo dục, và không thể kiểm soát được quyền lực. Độc quyền sách giáo khoa là một loại tham nhũng chính sách của các nhóm lợi ích được thể chế độc quyền bảo kê.
Hệ quả khó lường
Văn hóa-Giáo dục là hai lĩnh vực gắn liền với nhau như hình với bóng, và tương tác theo luật nhân quả. Giáo dục mà thiếu văn hóa làm nền cũng giống như làm nhà mà thiếu móng. Học gì và học thế nào thường liên quan đến giáo dục-đào tạo, nhưng học để làm gì thường liên quan đến văn hóa-tư tưởng. Thời trước, khi nói đến “khai dân trí và chấn dân khí”, chắc cụ Phan Châu Trinh nghĩ đến cả giáo dục-đào tạo và văn hóa-tư tưởng. Nhưng ngày nay, vào thời “mạt pháp” (theo phật lịch) thì văn hóa-giáo dục đang bị suy đồi và khủng hoảng.
Khủng hoảng giáo dục-đào tạo thường kéo theo khủng hoảng văn hóa-tư tưởng và khủng hoảng lòng tin. Khi mất lòng tin, môi trường sống bị ô nhiễm, môi trường giáo dục-đào tạo suy đồi và khủng hoảng, nhiều người (cả quan chức và trí thức) sẽ bỏ đất nước, tìm nơi khác cho gia đình cư trú như “tị nạn giáo dục” (thay vì “tị nạn chính trị”). Nhưng người ta không di cư sang Trung Quốc (vì đại cục “16 chữ vàng”), mà thường cho gia đình di cư sang Mỹ, Úc, Canada, và châu Âu, vì ai cũng muốn một môi trường sống và giáo dục an toàn.
Vậy điều gì đã xảy ra tại Việt Nam làm chất lượng giáo dục xuống cấp như vậy? Sau giải phóng (1954 tại Miền Bắc và 1975 tại Miền Nam), cách mạng đã phá bỏ mọi thứ của “đế quốc thực dân” (kể cả hệ thống giáo dục). Tại nhiều nước khác (như Ấn Độ) người ta không làm như vậy, mà vẫn giữ nguyên hệ thống giáo dục của Anh (hay Pháp). Chính vì vậy, cho đến nay hệ thống giáo dục của họ (về cơ bản) vẫn còn nguyên, nên chất lượng vẫn tốt.
Khi lập chính phủ thời VNDCCH, cụ Hồ cũng chú trọng đến giáo dục và văn hóa, nên chọn được các trí thức hàng đầu làm bộ trưởng, như ông Nguyễn Văn Huyên và Tạ Quang Bửu (Bộ Giáo dục) và ông Hoàng Minh Giám (Bộ Văn hóa). Tại Miền Nam, hệ thống giáo dục kiểu Pháp (về cơ bản) vẫn được duy trì đến 1975. Nếu so bộ trưởng giáo dục và văn hóa thời nay với thời trước thì hơi xấu hổ. Bằng cấp của họ tuy không thiếu (vì không giáo sư cũng tiến sỹ) nhưng chỉ thiếu văn hóa, nếu không ngọng tiếng Anh cũng ngọng tiếng Việt.
Lẽ ra khi phá cái cũ thì phải thay bằng cái mới tốt hơn, nhưng càng cải cách giáo dục, tình trạng suy thoái và tụt hậu về giáo dục càng tệ hơn. Cũng như kinh tế thị trường “định hướng XHCN”, Văn hóa-Giáo dục cũng phải “vừa hồng vừa chuyên”. Cách đây đã lâu, một lãnh đạo (hình như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng) nhận xét: “chất lượng giáo dục nước ta rớt nhanh như nhảy dù”. Khủng hoảng giáo dục nay đã trở thành vấn nạn quốc gia. Gần đây, cựu chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng nói: “cán bộ yếu thì cho đi học, bắt cán bộ giỏi làm thay; đến khi bổ nhiệm thì nhờ có bằng cấp nên cán bộ yếu được đề bạt”. (Tuổi Trẻ, 18/7/2006).
Nếu ngành xây dựng “ăn nhà đất” và ngành giao thông “ăn cầu đường”, thì ngành giáo dục “ăn sách giáo khoa” và các đề án cải cách giáo dục. Tuy không biết ngành nào ăn to hơn và phá nhiều hơn, nhưng chỉ biết họ “ăn không chừa thứ gì” (lời bà Nguyễn Thị Doan). Nếu ngành y tế thiếu trách nhiệm, họ có thể làm nhiều người mất mạng hay tàn tật. Nếu ngành xây dựng làm hỏng vài tòa nhà và ngành giao thông làm hỏng vài con đường (là hạ tầng cứng), người ta có thể đập đi xây lại. Nhưng nếu ngành giáo dục làm hỏng một hai thế hệ (như hạ tầng mềm) thì không thể đập đi xây lại, và hệ quả của khủng hoảng giáo dục khó lường.
Nếu vấn nạn giao thông hay vấn nạn y tế có thể gây ra “đột tử” cho hàng trăm sinh mạng, thì vấn nạn giáo dục có thể gây ra “đẳng tử” (chết từ từ) cho một hai thế hệ (vì dân trí thấp). Không biết cái chết nào nguy hiểm hơn. Câu chuyện tụt hậu về kinh tế (so với nhiều nước trong khu vực) chắc chắn có nguyên nhân từ sự tụt hậu về chất lượng giáo dục-đào tạo. Suy thoái và tụt hậu về kinh tế hay công nghệ (là hạ tầng cứng) có thể làm lại và phục hồi trong một hai thập kỷ, nhưng suy thoái và tụt hậu về văn hóa và giáo dục, đạo đức và dân trí, (là hạ tầng mềm) thì rất khó phục hồi, có lẽ phải mất một vài thế hệ (hoặc không bao giờ).
Càng cải cách càng tụt hậu
Năm 2008, Bộ Giáo dục đã tổ chức đối thoại trực tuyến với dân một cách “rất cầu thị”, thừa nhận sai lầm trong chương trình dạy ngoại ngữ và “hứa sẽ cải tổ”. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân lúc đó đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTg, ngày 30/9/2008, duyệt kinh phí 10,000 tỷ đồng (gần 500 triệu USD) cho “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2020” (gọi tắt là “Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020”). Theo chương trình này, đến năm 2020 “đa số thanh niên Việt Nam sẽ có đủ năng lực ngoại ngữ, biến ngoại ngữ thành thế mạnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Trong khuôn khổ triển khai đề án ngoại ngữ quốc gia đó, các tỉnh tranh thủ “tát nước theo mưa”. Long An duyệt chi 437 tỉ đồng, Kon Tum duyệt chi 135 tỉ đồng, Đà Nẵng duyệt chi 140 tỉ đồng. Không biết vì sao lại cần đến ngần ấy kinh phí, chẳng khác gì phong trào xây tượng đài. Sau 7 năm (kể từ khi ký duyệt) hay 5 năm kể từ khi bắt đầu triển khai giai đoạn hai (2011-2015), bức tranh toàn cảnh về đề án này đã dần lộ rõ chân tướng, làm dư luận bức xúc về tính hiệu quả. Nhiều người nghi vấn về động cơ tham nhũng, làm lãng phí ngân sách.
Việc cải tổ cách dạy tiếng Anh là rất cần, nhưng có cần một kinh phí khủng đến thế không (gần 500 triệu USD) khi Việt Nam còn nghèo và ngân sách đang cạn kiệt? Số tiền đó đủ để lập ra 5 trường đại học đẳng cắp quốc tế (như đại học Fulbright). Ông Lý Quang Diệu chắc cũng không dám chi nhiều đến như vậy cho Singapore, tuy ông ấy thường kêu gọi “học tiếng Anh là vấn đề số một” để tiếp tục phát triển đất nước giàu mạnh. Nhưng vấn đề không phải là mất bao nhiêu tiền, mà là được cái gì. Tại sao đầu tư lớn đến như vậy nhưng năng suất lao động của người Việt vẫn thấp nhất khu vực, và không có đủ nhân lực để hội nhập quốc tế?
Trong khi người dân còng lưng đóng thuế và trả nợ thay cho những đề án cải cách lãng phí khủng khiếp đó mà không được hưởng một nền giáo dục tử tế, thì các nhóm lợi ích thân hữu và các quan chức tham nhũng (là “đầy tớ nhân dân”) tiếp tục làm giàu, để rồi tuồn tiền ra nước ngoài cho con cháu họ du học và chuẩn bị “hạ cánh an toàn”. Đó là một nghịch lý đáng buồn. Không chỉ ngành giáo dục phải chịu trách nhiệm, mà các ngành khác (stakeholders) và các nhà tài trợ quốc tế (donors) cũng phải chịu một phần trách nhiệm liên đới.
Sau nhiều chương trình cải cách ồn ào, và nhiều “đề án quốc gia” hoành tráng, được vẽ ra chủ yếu vì kinh phí, nhưng lại “đầu voi đuôi chuột”, đâu lại hoàn đấy. Hàng năm, hơn 40% sinh viên tốt nghiệp đại học không có việc làm, hoặc không làm được việc, vì chất lượng đào tạo quá thấp và xa rời thực tế, không đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Kết cục là sinh viên tốt nghiệp vẫn thừa và thất nghiệp, trong khi các doanh nghiệp vẫn thiếu nhân lực. Người Việt “không thua kém ai” nhưng tại sao đất nước tiếp tục nghèo hèn và tụt hậu? Việt Nam có một cái mỏ người rất quý (hơn 90 triệu dân), nhưng đến nay vẫn không biết cách khai thác.
Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để hội nhập quốc tế và có năng suất lao động cao hơn, phải nâng cao chất lượng giáo dục bằng cách nâng cao dân trí và xây dựng một xã hội công dân. “Xã hội hóa” chỉ là khẩu hiệu suông, nếu không thực sự đổi mới tư duy cải cách giáo dục. “Kiên cố hóa trường học” là một khẩu hiệu ngược đời, vì gía trị cốt lõi của giáo dục không phải là phần cứng (hardware) mà là phần mềm (software). Melinda Gates nói, “Chỉ trang bị cơ sở vật chất đơn thuần không giải quyết được những vấn đề giảng dạy…”.
Nói như vậy để thấy sự bất cập và phân liệt (dysfunctional) trong cơ chế quản trị đất nước. Một chính phủ “kiến tạo” không thể “trên nóng dưới lạnh” hay “trên bảo dưới không nghe” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” hay “tay phải, tay trái” khác nhau. Hàng năm, tại các Diễn đàn Kinh tế, đại diện ngành giáo dục có tham gia không? Các nhà quản trị và các doanh nghiệp có “đặt hàng” với ngành giáo dục hay không? Tại sao 40% sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, hoặc không làm được việc? Chẳng lẽ suy thoái và tụt hậu kinh tế không liên quan đến giáo dục-đào tạo? Chẳng lẽ khủng hoảng về đạo đức và nhân cách, tình trạng vô cảm và bạo lực đến mức báo động hiện nay trong xã hội không liên quan đến Văn hóa-Giáo dục?
Đi tìm triết lý giáo dục
Người ta hay nói đến cải cách giáo dục (như cái ngọn), nhưng vẫn ít đề cập đến triết lý giáo dục (như cái gốc). Trong khi tham khảo các triết lý giáo dục khác nhau, chúng ta thử đề cập đến một triết lý giáo dục (educational philosophy) được nhiều nước trên thế giới vận dụng (trong đó có Việt Nam). Đó là “lý thuyết kiến tạo” (Constructivism & Constructionism) do các nhà khoa học Jean Piaget (1896–1980) và Seymour Papert (1928-2016) đề xướng. Papert là học trò xuất sắc của Piaget, đã phát triển constructionism trên cơ sở constructivism. (*)
Theo Jean Piaget, lý thuyết constructivism giúp học sinh phát triển nhận thức (cognitive), qua thực nghiệm và quan sát (experience and observation), trong khi lý thuyết constructionism của Seymour Papert chú trọng thực hành (physical) thông qua “cách học thế nào” (learning how to learn). “Lý thuyết kiến tạo” cho rằng học sinh làm việc hiệu quả khi họ chủ động và tự giác làm ra những thứ hữu hình trong thế giới thực (maker place) bằng thực nghiệm, chú trọng đến cấu trúc sinh học hữu hình và những quy luật phổ quát của sự phát triển tri thức. Tuy lý thuyết này phát huy hiệu quả tốt với các lớp học sinh giỏi (và các lớp luyện thi), nhưng nó lại có nhược điểm là khó nhân rộng và khó áp dụng cho những lớp đông học sinh.
Các nguyên lý và tiêu chí cơ bản của “lý thuyết kiến tạo” là “học tích cực” (Active learning), “học bằng thực hành” (Learning by doing), “lấy học sinh làm trung tâm” (Student-centered), “học qua vấn đề” (Problem-based learning), “học qua dự án” (Project-based training), “học qua trải nghiệm” (Experiential learning), “học qua khám phá” (Discovery learning), “học bằng làm việc nhóm” (Group work in learning), “dạy trên cơ sở khảo cứu” (Inquiry-based teaching), “học qua kiến tạo và phối hợp” (Constructivism-based Blended learning)…
Lý thuyết kiến tạo (constructivism & constructionism) chú trọng tạo cơ hội cho học sinh học một cách tích cực (active educational opportunities), để phát triển văn hóa thực nghiệm (maker culture) trong các lĩnh vực “STEAM” bao gồm khoa học (science), công nghệ (technology), chế tạo (engineering), nghệ thuật (arts), và toán học (mathematics). Tại MIT, Papert đã lập ra Nhóm Nghiên cứu mà sau này đã trở thành “MIT Media Lap” nổi tiếng. Cũng chính tại MIT mà ông đã nghiên cứu và phát triển “lý thuyết kiến tạo” (constructionism).
Từ nghiên cứu trẻ em bắt đầu hiểu về thế giới thế nào (how children make sense of the world) Papert đã nghiên cứu phát triển trí tuệ nhân tạo để ứng dụng vào học, thông qua thiết kế và chia sẻ trong môi trường cộng tác (learning through designing and sharing within collaborative environments). Trong lý thuyết kiến tạo, học sinh sẽ học hiệu quả nhất nếu được tiếp cận tri thức cao hơn tại “vùng phát triển liền kề” (zone of proximal development).
Theo các nhà nghiên cứu, ý tưởng về “kiến tạo” (constructs) thực ra đã xuất hiện từ thời xa xưa, từ thời Phật Tổ (Buddha) và Lão Tử (Lao Tzu). Sau đó, ý tưởng này được các triết gia và học giả khác tiếp tục phát triển (như Khổng Tử, Socrates, Immanuel Kant, Chu Văn An). Vì kiến tạo là quá trình phát triển tự nhiên, nên các mô hình học tập thuở ban đầu thường dựa trên phương pháp kiến tạo. Sau này, các nhà nghiên cứu tâm lý giáo dục đã tìm cách kết hợp các lý thuyết khác nhau và gắn với thực tế cuộc sống. Trong cuốn sách “The Evolving Self” (Robert Kegan, Harvard University Press, 1982), Kegan đã tìm cách phát triển lý thuyết gắn kết đó vào lĩnh vực giáo dục (becoming embedded and emerging from embeddedness).
Tại Việt Nam, trường PTCS Thực nghiệm đã vận dụng “lý thuyết kiến tạo” từ 1978 (qua con đường Nga). Theo thống kê, đến 2013 đã có 1.591 học sinh tham gia các lớp thực nghiệm cấp tiểu học và THCS. Chương trình thực nghiệm được triển khai tại 1.447 trường tiểu học trên 63 tỉnh/thành. Tuy chương trình này được triển khai trên diện rộng, trong bốn thập kỷ qua, nhưng vẫn chưa được chính thức đánh giá và tổng kết để xác nhận tính phù hợp (conformity) với các tiêu chí của “lý thuyết kiến tạo” (ở cấp quốc gia hay quốc tế) để trở thành chính thống (như tại Nga), nên vẫn còn là thực nghiệm (chưa hoàn chỉnh), dễ gây tranh cãi.
Lời cuối
Đó không phải là lỗi của chương trình thực nghiệm CNGD (vì đó chỉ là một sáng kiến trong quá trình cải cách và xã hội hóa giáo dục) hay của người đề xướng (vì Gs Hồ Ngọc Đại chỉ là một nhà khoa học chứ không phải là nhà quản trị). Nếu chương trình thực nghiệm CNGD (của Gs Hồ Ngọc Đại) hay các chương trình khác như “Nhóm cách Buồm” (của nhà giáo Phạm Toàn) chưa hoàn chỉnh hay chưa hoàn thiện, vì thiếu nguồn lực và thiếu hỗ trợ, thì đó không phải lỗi của họ, mà là “lỗi hệ thống” của Bộ Giáo dục và “chính phủ kiến tạo”. Đó là bức tranh giáo dục màu xám, với những khoảng tối khó lý giải và thật đáng tiếc. Lẽ ra, một đất nước với hơn 90 triệu dân là một cái mỏ nhân lực rất quý, thì nay là một gánh nặng. Sắp tới, khi trí tuệ nhân tạo (AI) và người máy phát triển, vấn đề nhân lực chắc còn nan giải hơn.
Trong khi đó, bức tranh về văn hóa cũng không khá hơn. Theo thống kê của bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch, hàng năm nước ta có tới 7.966 lễ hội (Lao Động, 5/3/2018). Hầu hết các lễ hội đó không những tốn kém kinh phí và lãng phí thời gian, mà còn thiếu văn hóa và thừa bạo lực. Bên cạnh “hội chứng lễ hội” (như “cờ đèn kèn trống”), Việt Nam còn nổi tiếng vì “hội chứng tượng đài”. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Việt Nam có hơn 400 tượng đài có vốn đầu tư khoảng vài chục tỷ đến vài trăm tỷ VNĐ, thậm chí có dự án đến hàng ngàn tỷ VNĐ, không những làm cạn kiệt ngân sách quốc gia, mà còn làm méo mó hình ảnh đất nước. Ngoài ra, Việt Nam có quá nhiều cuộc thi hoa hậu đến mức phản cảm (với nhiều tai tiếng). Nói cách khác, tham nhũng và suy thoái về văn hóa-giáo dục đang làm xói mòn các giá trị cốt lõi.
NQD. 17/9/2018
(*) Nhân đây, tôi xin nhắc lại một sự cố đáng tiếc đã xảy ra với Gs Seymour Papert khi ông đến Hà Nội dự một hội nghị toán học quốc tế (ICMI, Hanoi Dec. 2006). Có lẽ nhiều người Việt Nam đã quên mất sự cố bất hạnh đã xảy ra với nhà khoa học này (lúc đó đã 78 tuổi). Chắc họ quá mải mê tranh cãi về sách giáo khoa CNGD nên quên mất tác giả của “lý thuyết kiến tạo”. Seymour Papert không chỉ quan tâm đến toán học và phát triển “trí tuệ nhân tạo”, mà còn tìm cách ứng dụng công nghệ mới vào khoa học giáo dục, và muốn góp phần tháo gỡ vấn nạn ách tắc giao thông tại Hà Nội (mà bây giờ người ta sính gọi là 4.0).
Trong khi Papert đang nghĩ cách ứng dụng “lý thuyết tổ ong” (beehive theory) vào giải pháp tháo gỡ ách tắc giao thông Hà Nội, ông đã bị một xe máy đâm khi qua đường, gây chấn thương sọ não, phải cấp cứu tại bệnh viện Việt-Pháp một tuần trước khi được đưa về Mỹ. Thật trớ trêu thay, Papert đã trở thành nạn nhân của chính vấn nạn mà ông tìm cách tháo gỡ. Sau khi được đưa về Mỹ điều trị, tuy ông đã may mắn thoát chết nhưng bị tàn tật và sống thêm gần 10 năm. Seymour Papert đã mất ngày 31/7/2016 (tại Blue Hill, Maine).
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 17-9-18
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét