ĐIỂM BÁO MẠNG
- Ngày suy ngẫm của dân tộc (Viet-studies 28-4-15) -Phỏng vấn Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, một chính khách phục vụ hai chế độ Cộng hòa (RFA 28-4-15) -Nguyên đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh: 'Đừng độc quyền yêu nước' (VnEx 28-4-15) -Một Việt Nam, bốn thập kỷ, ba thế hệ, hai mảng màu (TBKTSG 26-4-15)- Sai lầm khi "coi thường" thành quả VNCH (BBC 28-4-15) -- P/v TS Vũ Minh Khương- An ninh T4 và ‘kho tư liệu vô giá’ trong ngày 30-4 lịch sử (CAND 28-4-15) -Người góp mặt trong thời khắc lịch sử tại Dinh Độc Lập (CAND 28-4-15) -- Về Nguyễn Hữu Thái. Bài của chính Nguyễn Hữu Thái đã đăng trên viet-studies: 30/4/1975, Dương Văn Minh và tôi (viet-studies 3-2008)-Nhà văn Thanh Giang nhớ ngày tiến về Sài Gòn (PLTP 24-4-15)-Bôi bác lịch sử? (tuan's blog 28/4/2015)- GS Nguyễn Văn Tuấn-Những giao lộ lịch sử (ND 27-4-15) -- Về Hội Người Việt tại Pháp.-Ký giả Dan Southerland với ngày 30 tháng 4 và điệp viên Phạm Xuân Ẩn (BVN 29/4/2015)-Hòa Ái, phóng viên RFA-'Dân tộc không thể mạnh nếu cứ thù nhau' (BVN 29/4/2015)-Cần gọi đúng tên cuộc chiến này (BVN 23/4/2015)- Phạm Đình Trọng-BÀN VỀ TÊN GỌI CUỘC CHIẾN HAI MIỀN VIỆT NAM VỪA QUA (BVN 29/4/2015) - Nguyễn Thanh Giang
- Putin: Bước lùi khi quân bài khí đốt hết linh? (Vef 29/4/2015)-Vì sao Nga khoe vũ khí, trung tâm quốc phòng ‘khủng’?(TVN 29/4/2015)-Khi Mỹ tái lập thế “cân bằng tên lửa” với Liên Xô (TVN 29/4/2015)
- Mở rộng dân chủ qua cách lắng nghe dân (BVB 28/4/2015)-Phạm Trần Lê-Đâu rồi ‘niềm tin' xưa ?! (BVB 28/4/2015)- Vương Trần Phi
- Chuyện nhà báo hải ngoại khóc ở Trường Sa (VNN 28-4-15)
- Bán một giạ muối không mua nổi tô phở (VnEx 28-4-15)- Nông dân Việt điêu đứng vì nông sản ế (BVB 20150428)
- Để lợi ích của vốn FDI không chỉ là luồng tiền (TBKTSG 28-4-15)
- Tranh luận về chính sách cho công nghiệp ôtô (VnEx 28-4-15) Giấc mơ ôtô Việt: Đừng so sánh với "con tỷ phú Mỹ" (ĐV 28-4-15)
- Đầu năm nghĩ đôi điều về tiếng Việt (VNCA 19-3-15)
- Phác thảo 40 năm văn học TP Hồ Chí Minh (ND 28-4-15)
- Bộ GD&ĐT vẫn đang "xác minh" hồ sơ tiến sĩ "dởm" của cán bộ ĐH Ngoại thương (GD 27-4-15)- Khó khăn thế ?
ĐẦU NĂM NGHĨ ĐÔI ĐIỀU VỀ TIẾNG VIỆT
Bài của TRỊNH CHU / VNCA 19/3/2015
Tôi nhiều lúc cứ lẩn thẩn, liệu tiếng Việt có còn là tiếng Việt nữa hay không, khi mà hằng ngày người Việt vẫn không ngừng đổ vào đấy đủ các thứ ngôn ngữ, từ tiếng Anh, tiếng Pháp đến tiếng Nga, tiếng Tàu... Sự du nhập những từ nước ngoài vào ngôn ngữ Việt có mặt tích cực là làm phong phú thêm tiếng mẹ đẻ, nhưng sử dụng những từ nước ngoài đã có từ tương đương trong tiếng Việt thì liệu có nên chăng?
Câu hỏi này đã có vị giáo sư người Mỹ trả lời giúp. Trong một lần tham dự buổi tọa đàm khoa học được tổ chức tại Resort Hoàng Anh Gia Lai (TP Đà Lạt), cũng dịp đầu năm mới, tôi đặc biệt chú ý đến bài tham luận của Giáo sư Kim Tơk Chung, vì những luận cứ khoa học hết sức thuyết phục và sắc sảo. Chủ trì buổi tọa đàm giới thiệu ông là người Mỹ, nhưng tôi vẫn ngờ ngợ rằng, ông là người Mỹ, gốc Hàn?
Thế rồi, khi buổi tọa đàm kết thúc và mọi người bắt đầu vào tiệc, nhìn thức ăn đã được bày sẵn trước đó, ông buột miệng bằng tiếng Hàn: "Mơ xi ku na!" (thức ăn ngon quá!), thì sự ngờ ngợ của tôi đã có lời giải. Tôi biết chắc giáo sư là người gốc Hàn Quốc nên đã chủ động đến chào ông. Bởi tôi vốn là cựu sinh viên chuyên ngành Hàn Quốc học, nên cũng biết tý chút về tiếng Hàn. Giáo sư thật sự xúc động và đã bật khóc. Ông bảo: "Ở một nơi xa xôi như Đà Lạt, tôi không ngờ lại có người nói được tiếng nước tôi".
"Tiếng nước tôi" và "tiếng Hàn Quốc" giống nhau về mặt ngữ nghĩa, song lại khác xa về góc độ tình cảm. Vì "tiếng nước tôi" chính là "linh hồn dân tộc tôi". Cách sử dụng từ ngữ của giáo sư đã gây rất nhiều thiện cảm trong tôi. Ông kể, ông rời Hàn Quốc sang Mỹ định cư từ lúc còn nằm trong bụng mẹ. Hiện tại, ông mang quốc tịch Mỹ. Tuy vậy, chỉ khi thật sự cần thiết, ông mới sử dụng tiếng Anh và luôn dùng đúng nơi, đúng chỗ.
Trong một giờ dạy tiếng Việt ở Trường dân tộc nội trú Đạ Tẻh.
Theo Giáo sư Kim Tơk Chung, một dân tộc chỉ thật sự là nó, một khi người dân của dân tộc đó nói được bằng chính ngôn ngữ dân tộc mình. Thế giới ngày càng phẳng thì ý thức gìn giữ bản sắc dân tộc lại càng trở nên quan trọng. Bởi vậy, người Hàn Quốc dù sinh sống ở đâu, luôn có một tâm cảm chung, đó là hướng về cội rễ; đặc biệt, về ngôn ngữ mẹ đẻ. Mỗi người Hàn chỉ cần phát hiện một phần dù rất nhỏ những giá trị tinh thần của ông cha (như việc nghe tôi nói tiếng Hàn chẳng hạn), cũng được coi là một việc rất tốt để trả nghĩa tổ tiên. Chả thế mà khi phóng chiếu tâm thức dân tộc Việt vào "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, học giả Phạm Quỳnh đã nói một câu bất hủ: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn", cũng vì một lẽ ấy. Trong sinh hoạt, tiếng Hàn vẫn luôn chiếm vị trí ưu tiên. Điều này không có nghĩa ông kém tiếng Anh. Trái lại, không chỉ rành rẽ tiếng Anh, ông còn biết tường tận cả tiếng Pháp, tiếng Đức. "Cộng đồng Hàn ngữ chúng tôi luôn tâm niệm, tiếng Anh đơn thuần chỉ là một công cụ, đúng hơn là một phương tiện cần thiết trong công việc, trong giao dịch, chứ chẳng có liên quan gì đến đẳng cấp hay địa vị của người sử dụng cả. Tiếng Đức, tiếng Pháp cũng vậy! Có nhiều con em người Hàn Quốc sinh ra tại Mỹ, mặc dù chưa biết Hàn Quốc là đâu, nhưng tiếng Hàn luôn là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng Anh", Giáo sư Kim cho biết.
Soi chiếu những sẻ chia của vị giáo sư người Mỹ, gốc Hàn vào tiếng Việt và con người Việt, tôi nhận thấy tiếng Việt đang dần bị biến dạng và con người Việt thì lại quá tự ti trong việc tiếp thu văn hóa nước ngoài. Chỉ cần ngồi trước vô tuyến truyền hình, hoặc lật giở vài trang sách, báo một lúc là tôi có thể lôi ra hàng đống những câu, chữ Tây không ra Tây, ta chẳng ra ta, mà Tàu cũng không ra Tàu, tỷ như: Fan hâm mộ (đã fan sao còn hâm mộ?), một phong cách style (đã nói phong cách lại còn thêm style chi vậy?), rồi thì các (hộ?) gia đình, (đường?) quốc lộ, (đường?) phi đạo...
Đó là thói ba rọi, một kiểu bắt chước rẻ tiền, hổ lốn. Trong giao tiếp hàng ngày, chẳng biết tự bao giờ người Việt lại có thói quen khi nói thường chêm vài từ tiếng Anh vào và hậu quả là ngày càng xuất hiện tràn lan những từ nửa ta nửa Tây, kiểu: Cực hot (nóng), cực cool (mát, lạnh), tuổi teen (tuổi mới lớn)... Nguy hại ở chỗ vô hình trung tạo ra tâm lý đám đông kỳ thị, cho rằng mình ở một đẳng cấp cao hơn khi nói tiếng nước ngoài và coi đấy là trào lưu thời thượng. Nếu chẳng may ai đó lỡ miệng gọi căng thẳng thần kinh, lập tức sẽ bị đám đông người xung quanh cho là nhà quê, nên phải tự "phố hóa" mình bằng cách nói stress, cũng như thay vì nói câu lạc bộ thì phải nói club, hoặc gọi kiosque thay cho quầy sạp, hay nói restaurant thay vì phải nói nhà hàng... nghe cho nó oách.
Thói quen nói và viết tiếng Việt xen lẫn vài từ tiếng Anh, hoặc tiếng Pháp không chỉ xảy ra ở những nơi tập trung đông du khách nước ngoài như sân bay, khách sạn, nhà hàng, trung tâm lữ hành..., mà kể cả những nơi đèo heo hút gió, tiếng nước ngoài vẫn len lỏi chưng ra mọi lúc mọi nơi, trong mọi ngữ cảnh mà tiếng Việt hoàn toàn đủ khả năng diễn đạt. Có điều không phải ai trong số này cũng giỏi tiếng Anh, tiếng Pháp. Phần đông chỉ cố dùng vài từ tiếng nước ngoài để chứng tỏ mình Tây và để "hù" người khác là chính. Đã thế, nhiều người còn trơ trẽn cho đây là một cách hiện đại hóa tiếng Việt. Nhưng hiện đại kiểu ấy thì... tôi thà mang tiếng lạc hậu để khỏi làm hỏng tiếng Việt.
Tôi nghĩ, đã đến lúc các nhà lập pháp Việt Nam, cụ thể ở đây là Quốc hội, nên ngồi lại bàn bạc và sớm đi đến thống nhất đưa ra một quy chuẩn tiếng Việt bằng Luật hoặc Pháp lệnh, để tránh tình trạng sử dụng tiếng Việt một cách bừa bãi, lộn xộn như hiện nay. Các nhà lập pháp Việt Nam cần hiểu rõ và quy định cụ thể, chặt chẽ cách đặt tên (con) theo chuẩn của người Việt thì như thế nào, tối đa được dùng bao nhiêu chữ? Chứ cái kiểu mạnh ai nấy đặt, đại loại: Honey Tran, Rosa Nguyen, Ninh Trần Nguyễn Quốc..., thì chẳng biết ngôn ngữ Việt sẽ đi về đâu?
Nếu là nữ, có bắt buộc tên đệm phải là thị hay không nhất thiết phải có thị? Còn nhiều, nhiều nữa những bất cập trong văn phạm và chính tả cần phải chú trọng một cách rốt ráo cả trên bình diện giảng dạy cho học sinh lẫn công tác in ấn, xuất bản. Quốc hội sớm chỉ đạo Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học và các tổ chức xã hội như Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam... có trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Những tổ chức này cần có văn bản yêu cầu, hướng dẫn các biên tập viên các báo, đài, nhà xuất bản đặc biệt hết sức chú ý sửa chữa các sai phạm về chính tả trong sách, báo, tạp chí, bản tin... trước khi đưa đi in, hoặc lên sóng cũng như việc cần hay không cần phiên âm tiếng nước ngoài ra âm Việt. Nếu phiên âm, cần thiết phải thống nhất cách phiên âm, tránh tình trạng mỗi báo, mỗi đài nói một cách, viết một cách.
Tôi lấy ví dụ, Thủ đô nước Pháp, có báo viết Paris, có báo lại viết Pari, có báo thì viết Ba Lê... Mê-hi-cô là từ người Việt đã quen dùng để gọi tên một quốc gia nằm ở Trung Mỹ, gần đây có đài lại nói là Mexico. Nước Ai Cập, quốc gia nằm ở Bắc Phi, có báo viết là Egypt... Tên những quốc gia, vùng lãnh thổ đã được Việt hóa (Đức, Ba Lan, Pháp, Anh, Mỹ, Thụy Điển, Hồng Kông, Đài Loan...), có nên tiếp tục sử dụng tiếng Việt? Còn tên những quốc gia, vùng lãnh thổ, các thành phố trên thế giới chưa được Việt hóa, cũng cần được thảo luận kỹ lưỡng để đi đến thống nhất nên viết theo tiếng Anh hay tiếng Pháp?
Các cơ quan chức năng cần quan tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa việc sử dụng tiếng nước ngoài trong quảng cáo, trong việc đặt tên các khu nghỉ dưỡng, khu du lịch, các biển hiệu, nên bắt buộc phải sử dụng tiếng Việt song song với ngôn ngữ nước ngoài. Và, quan trọng nhất, các cơ quan hữu quan phải làm sao cho người trẻ thấy được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt; tránh tâm lý tự ti, mặc cảm cố hữu ngay trong quan niệm phải nói tiếng nước ngoài thì mới oai, mới sang, mới hiện đại?
Chỉ như vậy, tiếng Việt mới có cơ hội được lành mạnh hóa và dần thoát khỏi nạn lai căng, mất gốc. Khi ấy, người Việt hoàn toàn có quyền ngẩng cao đầu đầy tự tin để hát: "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi/ Mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi/ Tiếng ru muôn đời" như trong bài "Tình ca" mà cố nhạc sĩ Phạm Duy đã viết ngày nào.
Trịnh Chu
THÊM LỜI BÀN VỚI TRỊNH CHU
Ngô Thế Bính
Những điều suy nghĩ của Trịnh Chu về bệnh dùng từ nước ngoài làm méo mó tiếng Việt tôi rất tâm đắc. Tác giả chủ yếu nói về hiện tượng dùng lẫn từ Anh, Pháp…mà nguyên nhân là người dùng ngộ nhận về “đẳng cấp”, thiếu hiểu biết về tiếng Anh do chưa được học đầy đủ, chưa có cả quy định pháp luật để bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Tôi muốn được góp thêm một hiện tượng cũng làm méo mó tiếng Việt, nhưng lại là dùng lẫn từ Hán-Việt một cách sai nghĩa.
Ví dụ: để diễn đạt cái gì yếu kém, thấp bé người ta dùng cụm từ “khiêm tốn”. Tôi từng nghe rất nhiều lần BTV trên VTV dùng cụm từ này để chỉ thành tích thể thao của một đội bóng, thành tích xây dựng kinh tế của một địa phương hay cả nước…Người ta đã không biết trong từ Hán -Việt “khiêm tốn” là cụm từ để chỉ một hành vi đạo đức của một cá nhân nào đó không muốn tự đề cao hay nhận sự đề cao của người khác về mình.
Cũng trên VTV tôi nghe một nhạc sỹ nhắc đến cụm từ “giai điệu” nhiều lần khi kể về sáng tác của bản thân, thay vì dùng cụm từ “làn điệu”. Nhạc sĩ đã không biết trong từ Hán -Việt, “giai điệu” có nghĩa là làn điệu hay, hóa ra nhạc sĩ tự khen mình!
Trong hoạt động marketing của các doanh nghiệp thậm chí trong văn bản pháp luật về thương mại, người ta đồng nhất "khuyến mãi" với "khuyến mại", mặc dù chúng khác nghĩa nhau. "Khuyến mại" là khuyến khích người bán, còn "khuyến mãi" là khuyến khích người mua.
Trong rất nhiều luận văn của Thạc sĩ kinh tế mà tôi chấm, tác giả rất hay dùng từ “Tồn tại” để chỉ sự sai sót, yếu kém của một công ty, mà tác giả không biết rằng “tồn tại” trong từ Hán-Việt chỉ có nghĩa “còn ở”, đấy là chưa kể dùng cụm từ “còn tồn tại” rất lủng củng, trùng lặp!
Có thể kể ra rất nhiều ví dụ nhưng trong khuôn khổ bài này tôi không thể liệt kê.
Từ Hán – Việt là từ có nguồn gốc Hán nhưng đã được phiên âm sang tiếng Việt và người Việt sử dụng nó hàng nghìn năm nay kể từ khi có sự xâm lược, đô hộ của người Trung Hoa. Người ta ước tính có khoảng 60% từ Hán-Việt trong từ điển tiếng Việt và được thừa nhận như bộ phận của tiếng Việt, thậm chí nhiều người dùng từ Hán Việt cũng không biết là từ Hán-Việt. Tôi không phủ nhận sự thật lịch sử là tiếng Việt có quan hệ sâu sắc với tiếng Hán, và không thể hình dung người Việt hiện đại sẽ diễn đạt ra sao nếu chỉ dùng từ thuần Việt. Đúng là từ nước ngoài làm phong phú tiếng Việt và càng đúng với từ Hán Việt. Tôi đồng ý với Trịnh Chu nếu dùng từ nước ngoài trong khi đã sẵn có từ thuẩn Việt là điều cần tránh. Đối với từ Hán-Việt tuy đã quen thuộc trong nhiều trường hợp cũng có thể thay bằng từ thuần Việt nếu thấy thỏa đáng. Tôi còn nhớ thời chiến tranh báo chí nước ta loay hoay mãi với 2 cụm từ thuần Việt “tầu chở máy bay” với “tầu sân bay”. Cuối cùng người ta đã chọn cụm từ “tầu sân bay” để chỉ rõ tính chuyên dụng của loại tầu này một cách thỏa đáng, và được dùng thống nhất đến nay. Lý do ở đây là hầu như tầu chiến cỡ lớn, thậm chí tầu khách du lịch cũng có chỗ cho vài chiếc máy bay. Tôi cũng cho rằng phần lớn trường hợp dùng sai từ Hán – Việt có nguyên nhân sâu xa ở sự kém hiểu biết ở người sử dụng. Giải pháp quan trọng do đó nằm trong hệ thống giáo dục, cơ quan truyền thông. Trong hệ thống giáo dục, nhất là nơi đào tạo các thạc sĩ, tiến sĩ phải chống triệt để thói “đạo văn”. Những thạc sĩ hay viết cụm từ “tồn tại” mà tôi kể trên nói rằng: họ bắt chước các nhà lãnh đạo của mình khi viết và đọc báo cáo. Thể mới biết cái sai của việc dùng từ ngữ được lan tỏa mạnh mẽ nếu người sử dụng là những quan chức có địa vị lớn trong cộng đồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét