ĐIỂM BÁO MẠNG
- Tuổi già là thời sung sướng nhất (viet-studies 16-10-14) - Các vị về hưu hay chuẩn bị về hưu nên đọc
- Thực hư tài liệu tuyên truyền Thành Đô (BBC 15-10-14)
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng TQ (VNN 16-10-14)
- Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh: Tôi tự hào là người Việt Nam (LĐ 16-10-14) -
- Bộ trưởng Tư pháp không nên khôi hài trước cơ quan dân cử! (infonet 16-10-14)
- Quan làm đơn nắn đường, dân làm đơn đánh lộn (ĐV 16-10-14) -
- T.S Lê Đăng Doanh: Nợ công của VN tiến rất nhanh (RFA 15-10-14)
- TT Putin: “Tống tiền” Nga là sự liều lĩnh của Mỹ và phương Tây (LĐ 16-10-14) -
- Phát điên vì chồng mang 3 tỷ đồng… cho gái (PLTP 16-10-14) -
- Hoạt động xuất bản - SOS ! (ND 16-10-14)
- Bị rút bài báo khoa học khỏi tạp chí quốc tế (TT 16-10-14)
- Khảo cổ dưới nước vừa thiếu, vừa yếu (TN 16-10-14)
- Không chỉ để viết báo cáo (TBKTSG 16-10-14)
- Tiếng Việt, Từ điển & Xuất bản: Ai sẽ cứu tôi? (MTG 16-10-14)
- 1 từ điển “rác” - 4 “nhà” xuất bản (TT 16-10-14) -- Phát hiện sốc quanh "Từ điển Tiếng Việt dành cho học sinh" (NNVN 14-10-14) Thu hồi cuốn từ điển gây sốc (NNVN 16-10-14)
- Nhà dài văn hóa: nơi xuống cấp, chỗ cỏ mọc (TT 14-10-14)
- Cho thế giới biết đờn ca tài tử (NLĐ 16-10-14) -- NS Nguyễn Vĩnh Bảo
- Ở Hồng Kông, những người biểu tình tố cáo một hình thức bất lực công (QC 16/10/2014)-Laure Belot thực hiện/ Le monde-Nguyên Ngọc dịch/ Văn Việt
- Quan làm đơn nắn đường, dân làm đơn đánh lộn (QC 16/10/2014)- Mi An/ Đất Việt
- Báo Trung Quốc bỗng dưng… tức tối! (QC 16/10/2014)- Bùi Hoàng Tám/ Dân Trí
- Bạo loạn ở Vân Nam, Quý Châu (QC 16/10/2014)- Theo BBC
- Bà Thatcher đã mất Hong Kong như thế nào? (QC 16/10/2014)- Mạnh Kim/ FB Manh Kim
- Đường lối phản giáo dục của những người cầm chịch sự nghiệp giáo dục (QC 16/10/2014)- Nguyễn Trần Sâm/ Blog Lề trái
- Quý Châu, đất Thục của Lưu Bang đang dậy sóng (QC 17/10/2014)- Nguyễn Thái Nguyên
- Liệu có biểu tình ở Ma Cao không? (QC 17/10/2014)-Chen Dingding/The Diplomat- Nguyễn Huy Hoàng dịch/ NCQT
- Đi tìm câu trả lời về “một bộ phận mà Đảng nói không nhỏ” (QC 17/10/2014)- Hà Văn Thịnh/ Một Thế Giới
- Thủ tướng: Dân chủ là xu thế không thể đảo ngược (QC 17/10/2014)- Chung Hoàng/ VNn
- Trung Quốc: Biểu tình của người dân ở các tỉnh Quý Châu, Hà Bắc, Chiết Giang,Quảng Đông (QC 17/10/2014)- Theo Cop nhat/ Blog Trần Nhương
QUYỀN IM LẶNG- NGUYÊN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ THỰC THI
Bài của NGUYỄN SĨ PHƯƠNG/ Tia Sáng/ Quechoa 16/10/2014
Vừa qua, Dự thảo Luật Tổ chức Viện KSND và Tòa án ND đã gây tranh cãi trong dư luận xã hội khi bác bỏ quyền im lặng, phủ định một quyền cơ bản mang tính phổ quát thế giới!
*Phần I: Những vấn đề đặt ra
Tháng trước, UBTV Quốc hội họp cho ý kiến về Dự Luật Tổ chức Viện KSND và TAND. Gây tranh cãi thu hút truyền thông nhất là 4 quyền trong lĩnh vực tố tụng, tư pháp, 1- quyền im lặng, 2- quyền có luật sư, 3- quyền tranh tụng bình đẳng và 4- quyền được xét xử độc lập. Trong đó, điểm mấu chốt của cả 4 quyền trên đều ít nhiều liên quan tới vai trò luật sư. Luật TTHS ở nước ta và trên thế giới ngày nay đều quy định “Quyền nhờ (có) luật sư”. Lý do không có gì cao siêu cả, cực kỳ đơn giản, bệnh nhân cần bác sỹ, sinh nở cần bà đỡ, học hành cần thầy cô… thì vướng quan sự cần luật sư là lẽ đương nhiên, thuộc về quyền cơ bản. Nhưng ở ta thực tế bất khả thi, bởi thiếu cả chế tài buộc nhà chức trách phải bảo đảm quyền đó cho họ, lẫn điều kiện thực hiện, nghi phạm bị cách ly hoàn toàn, quá trễ để gặp được luật sư vốn chỉ được chấp thuận khi người nhà mời, phải được cấp giấy chứng nhận bào chữa, phải chờ tới lịch hỏi cung. Nếu hình dung nghi phạm như bệnh nhân cấp cứu, luật sư là bác sỹ sẽ thấy hậu hoạ bất khả kháng. Chưa nói, người nghèo thiếu tiền mời luật sư và khó tìm được luật sư thiện nguyện, con “bệnh“ chỉ nằm chờ chết. Mặt khác, nghề luật sư đối kháng với cơ quan điều tra tố tụng vốn chẳng thích gì luật sư, khó được họ ủng hộ chưa nói cản trở một khi thiếu chế tài đối với cơ quan này, như phát biểu của VKS và TA Triệu Sơn thách thức “để xem luật sư làm được gì“ trong vụ án ông Nguyễn Bá Qúy mới đây là một điển hình. Vì vậy, tranh cãi nảy lửa về Dự luật trên là đương nhiên, không chỉ liên quan tới số phận bất kỳ ai, cả thường dân lẫn quan chức dù cao cấp tới đâu, một khi gặp rủi ro quan sự đều phải đối mặt, mà còn là bằng chứng không thể bác bỏ để khẳng định một nhà nước thực tế có tính pháp quyền hay không?
Phát biểu tại cuộc họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng khẳng định, “về quyền tranh tụng phải căn cứ Hiến pháp 2013 để xác định quyền của luật sư bào chữa ngay từ đầu. Người ta mới thu thập được chứng cứ, mới tìm hiểu được sự việc, nghe thân chủ, đi chứng minh, rồi đứng ra bào chữa được. Nguyên tắc xưa nay, luật sư chỉ bào chữa, bác luận cứ buộc tội của viện kiểm sát. Tòa tuyên án. Trước công lý, tất cả bình đẳng. Thẩm phán xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, không chịu bất kỳ chỉ đạo nào. Nghị quyết Bộ Chính trị viết rất rõ: Căn cứ chủ yếu vào tranh tụng tại phiên tòa để quyết định bản án. Đó là nhiệm vụ của tòa án“.
*Phần II: Bản chất quyền im lặng
Quan điểm của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng chính xuất phát từ bản chất của quyền im lặng, quyền có luật sư, quyền tranh tụng bình đẳng, quyền được xét xử độc lập, trong thời đại ngày nay vốn thuộc QUYỀN CƠ BẢN có nội hàm bao gồm 4 dấu hiệu: a- quyền đặc trưng của con người trước nhà nước (chính vì vậy nó còn được gọi là quyền tư vệ chống lại nhà nước xâm phạm. Như ở Đức được hiến định ngay tại Điều 1 “những quyền cơ bản sau đây là những chuẩn mực thước đo, quy tắc xử sự, trực tiếp ràng buộc cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp phải tuân thủ“), b- không thể tách rời, chuyển nhượng (như không ai được quyền thay ai đi tù hay bỏ phiếu cơ quan dân cử), c- lâu dài, và d- nếu vi phạm kiện lên toà án Hiến pháp. Thiếu một trong 4 dấu hiệu trên, nó sẽ không được bảo đảm trên thực tế. (Chính vì thế, quốc gia nào cũng hiến định hoặc mặc định quyền cơ bản, nhưng thực tế xếp hạng quốc gia dân chủ thứ bậc cách nhau cả trời vực).
Có thể tham khảo ở Đức, Chương Quyền cơ bản được hiến định 22 Điều. Sắp tới có thể bổ sung thêm quyền có tài khoản ở ngân hàng do EU đề xuất, quyền tự do truy cập Internet đang được UNO bàn thảo (khi đó nhà nước bị buộc phải bảo đảm cho người không có thu nhập, lập tài khoản và truy cập Internet miễn phí, nếu không không thể gọi quyền cơ bản). Còn ở ta, Hiến pháp 2013 hiến định tới 36 Điều (gấp rưỡi Đức), liệu có bao hàm đủ 4 dấu hiệu nội hàm quyền cơ bản hay không hiện còn tùy thuộc kết qủa thể chế hoá nó.
Khác với 22 quyền cơ bản tập hợp trong Chương Quyền cơ bản vốn được áp dụng trong mọi trường hợp; tương tự hầu hết các quốc gia hiện đại, 4 quyền cơ bản trên được Hiến pháp Đức xếp vào Chương Tư pháp, nên thường gọi là “quyền tương tự quyền cơ bản“ hay “quyền cơ bản trong lĩnh vực tư pháp“. Quyền im lặng được hiến định ẩn chứa tại điểm (1), Điều 103: “Bất cứ ai bị xét xử đều phải lắng nghe ý kiến họ“. Được hiểu họ trả lời, phát biểu, hay không, như thế nào, là quyền của họ. Từ quyền “ẩn chưá“ được hiến định đó, quyền im lặng được thể chế hoá bằng Luật tố tụng hình sự StPO.
Còn ở Mỹ, quyền im lặng được hiến định trực tiếp tại điều 5 Tu chính Hiến pháp, “trong tố tụng hình sự, không được phép buộc bất cứ ai phải khai báo tự chống lại mình“.
Ở ta, những quyền cơ bản trong tố tụng tư pháp cũng được Hiến pháp 2013 quy định tại Chương Quyền cơ bản, Điều 31, điểm 4, người bị quan sự “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”… Và cả tại Chương Toà án, Viện Kiểm sát, Điều 103, “Thẩm phán, Hội thẩm, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm“. “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm“. Mặc dù không có điều khoản nào ẩn chưá trực tiếp quyền im lặng nhưng các quyền cơ bản khác trong tố tụng hiến định ở trên, tự nó đã đặt ra điều kiện “cần” hay “tiền đề” về quyền im lặng có được bảo đảm, thì các quyền còn lại mới có thể thực thi. Nói cách khác quyền im lặng được mặc định, giống như quyền ăn, uống, thở, nghe, nhìn, vận động, yêu, ghét…, mặc dù không hiến định, nhưng thiếu nó thì không thể thực thi bất kỳ quyền gì khác liên quan!
*Phần III: Công nghệ thực thi – cốt tử của quyền im lặng trên thực tế
Dù hiến định hay mặc định, quyền cơ bản chỉ có thể bảo đảm khi chế tài được mọi cơ quan công quyền phải tuân thủ những chuẩn mực thước đo, quy tắc xử sự hệ dẫn từ chính những quyền đó. Nói cách khác, hiến định hay mặc định chỉ mới bảo đảm được quyền cơ bản về mặt nguyên lý, để trở thành hiện thực phải có công nghệ pháp lý thực thi, tức các quy phạm đong đo đếm được quy định nghiêm ngặt trình tự thao tác của các cơ quan nhà nước phải thực hiện, ở dạng văn bản lập pháp (giống như năng lượng nguyên tử có thể nắm được dễ dàng về mặt nguyên lý, nhưng để sản xuất được nó phải có công nghệ).
Có thể tham khảo công nghệ pháp lý, qua quy phạm 2012/13/EU về “trách nhiệm giải thích truyền đạt“ trong các vụ án hình sự. Điều 3, đoạn 1 quy định “không cho phép ngoại lệ, mọi nghi can phải được cơ quan điều tra thông báo về quyền im lặng một cách nhanh chóng bằng miệng hoặc giấy với ngôn ngữ đơn giản nhất có thể hiểu được. Thông báo đó phải lưu giữ để sau này chứng minh được trách nhiệm đó đã hoàn thành. Vì vậy thông báo phải được thực hiện vào thời điểm mà quyền này nghi can có thể áp dụng (tức trước khi khai báo). Quy phạm trên, các nước EU phải đưa vào luật quốc gia trước ngày 02.06.2014“.
Còn ở Đức, Điều 136, 136 a Luật tố tụng StPO và Điều 55 Luật vi phạm hành chính OWiG quy định, “trước khi lấy lời của nghi can hoặc người vi phạm hành chính phải thông báo cho họ, theo luật họ được hoàn toàn tự do chọn khai báo hoặc không đối với cáo buộc, nhất là khi nhận thấy nói ra sự thật sẽ phải tự chịu hậu quả xấu; và bất kỳ lúc nào ngay cả trước khi chưa thẩm vấn, được quyền tham vấn luật sư mà người đó lựa chọn“. Quyền im lặng và tham vấn theo Điều 163 đoạn 4 Câu 2 Luật StPO, nghi can hay người vi phạm hành chính được quyền áp dụng “ngay từ công đoạn đầu tiên bị cảnh sát thẩm vấn“. Tiếp theo, nghi can phải được thông báo, “họ có quyền yêu cầu cấp các bằng chứng cáo buộc để họ bác bỏ“. Ngoài ra nếu Viện Kiểm sát thẩm vấn, “thì trước đó phải cho bị can biết đã bị cáo buộc vi phạm điều khoản nào của luật nào“. Trong xét xử, Điều 243, đoạn 4, câu 1 Luật StP0 quy định, “khi mở đầu phiên toà phải thông báo cho bị cáo quyền im lặng, dù trước đó họ đã được cảnh sát hay Viện kiểm sát thông báo“. “Nếu nhà chức tranh vi phạm các điều khoản trên, các bằng chứng đưa ra từ lời khai của nghi can, bị cấm sử dụng làm bằng chứng xét xử“. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc cơ bản trong xét xử tội phạm: “không một ai buộc phải tự tố cáo mình“. Từ đó, Điều § 55StPO còn quy định quyền im lặng của cả nhân chứng để tránh qua khai báo, họ hoặc gia đình họ bị điều tra. Đối với người nước ngoài, Hiệp định quyền lãnh sự ký ở Viên (Áo), Điều 36, đoạn 1, câu 3 còn quy định thêm, phải thông báo không chậm trễ cho người đó biết họ có quyền thông tin cho cơ quan đại diện nước họ, và thông tin đó phải được chuyển đi không chậm trễ.
Ở Thụy Sỹ, Điều 31 Hiến pháp quy định, khi bị bắt mọi người đều có quyền được thông báo không chậm trễ về lý do và quyền của mình ở dạng dễ dàng hiểu được. Thuộc quyền này gồm quyền im lặng, quyền được toà án kiểm tra xem có cho phép nhà chức trách bắt giữ họ trong thời hạn thích ứng hay không, và quyền thông báo cho người nhà. Từ nền tảng Hiến pháp đó, Luật tố tụng hình sự, Điều 158, đoạn 1, quy định, “nghi can trước khi bị thẩm vấn có quyền nhận được thông báo về quyết định điều tra hay khởi tố mình, quyền từ chối khai báo và hợp tác (quyền im lặng), quyền được mời luật sư hoặc xin luật sư công, quyền mời phiên dịch (nếu là người nước ngoài)“. Nếu bị bắt giữ, quyền đó phải được thông báo trực tiếp cho đương sự ngay sau khi bị bắt (Điểu 219, đoạn 1, Luật StPO). Nếu quyền trên không được thực hiện, thì mọi khai báo hoàn toàn không được phép sử dụng phục vụ cho xét xử (Điều 158, đoạn 2, và Điều 141, đoạn 1 Luật StPO).
*Phần IV: Còn Dự Luật Tổ chức Viện KSND và TAND ở ta ?
Quyền im lặng cùng các quyền cơ bản khác trong tố tụng tư pháp mặc dù đã được hiến định hoặc mặc định, cũng như tư tưởng chỉ đạo công nghệ thực thi thể hiện trong phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đều không khác mấy các nước hiện đại, nhưng kết qủa khác hẳn họ, bị vô hiệu hóa bởi công nghệ thực thi nó do chính những người soạn thảo Dự luật đề xuất. Chánh án Toà án Tối cao Trương Hòa Bình đưa ra quan điểm, Dự luật phải „bảo đảm nguyên tắc hiến định“, “tuy nhiên cũng có nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong xét xử”. Còn Viện trưởng VKSND tối cao Nguyễn Hòa Bình cho rằng, “ban soạn thảo không đồng tình với phương án hai bên giữa luật sư và cơ quan tiến hành tố tụng ngang bằng“, thể hiện từ việc bố trí chỗ ngồi trong xét xử. Lý do: “đã có báo cáo Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp và Bộ Chính trị kết luận, mô hình tố tụng chúng ta là mô hình thẩm vấn, có kế thừa tinh hoa của tranh tụng“. Về góc độ khoa học, đưa ra 2 mô hình, “thẩm vấn“ với “tranh tụng“, và “hiến định“ với “đảng lãnh đạo“ đặt ra yêu cầu cùng thoả mãn, để rồi chọn tùy ý một trong 2 là phi logic, kết qủa quyền cơ bản trong tố tụng bị phủ định dễ dàng là đương nhiên nếu muốn.
Đối với quyền im lặng, Viện trưởng Nguyễn Hoà Bình mặc dù thừa nhận: “Quyền im lặng của bị can, bị cáo thế giới đã áp dụng “, nhưng do ở ta “cơ quan điều tra hoàn toàn không muốn quy định quyền im lặng, trong khi phía luật sư thì rất muốn“, “nên chúng tôi không dám đưa quy định này vào”. Rồi kết luận “chúng tôi cũng còn lúng túng, cần có định hướng của Ủy ban TVQH“. Kết luận trên cho thấy quy trình làm luật này ở ta ngược với thế giới hiện đại, chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thực trạng trì trệ thể chế hầu khắp mọi lĩnh vực xưa nay. Khác với công chức luôn có trách nhiệm xin ý kiến và tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, nghị sỹ các nước hiện đại là chính khách hoàn toàn độc lập, phải tự quyết định theo nhận thức của mình, và được quyền miễn trừ đối với quyết định đó, không chịu bất kỳ chỉ đạo của ai, không được đẩy bất kỳ vấn đề gì cho ai hay cấp nào khác mà không đưa ra chính kiến của mình. Chủ tịch hay Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ là nơi tập hợp, tổ chức, đưa ra khuyến nghị, hoàn toàn không phải cấp trên định hướng nghị sỹ; kỳ họp quốc hội cũng chỉ là nơi thông qua Dự luật, thực hiện “phép cộng“ tất cả nghị sỹ. Thử hình dung sự kiện Hạ viện Đức trước kỳ nghỉ 2 tháng dịp hè thu năm ngoái, với 631 nghị sỹ trong vòng 2 phiên họp 27 và 28.7.2013 đã thông qua tới 143 Dự thảo Luật và nghị quyết. Liệu năng suất ban hành văn bản lập pháp đó có đạt nổi, nếu nghị sỹ hễ cứ vướng là phải chờ ý kiến của ỦBTV Quốc hội, không thể quyết định như ở ta trường hợp trên. Một khi văn bản lập pháp thiếu và yếu, thì lẽ dĩ nhiên, nhà chức trách sẽ không thể hành xử khác, cứ như cũ mà làm, hoặc hành xử theo nhận thức chủ quan, chưa nói đến động cơ vụ lợi – đó chính là bản chất của trì trệ thể chế.
Công nghệ làm luật ở nước nào cũng do từng nghị sỹ tham gia, sản phẩm hiện đại hay không tùy thuộc chính họ. Sở dĩ quyền im lặng bị Dự luật từ chối thể chế hoá, bởi như Đại biểu quốc hội Đỗ Văn Đương, thành viên Tổ biên tập, trả lời trên VTV khẳng định sai cả khoa học pháp lý, “Quyền im lặng không phải quyền con người“. Và dẫn liệu “ở các nước nếu quy định thì cũng khuyến cáo người bị bắt nên thành khẩn khai báo”, cũng lại hoàn toàn sai thực tế nốt, bởi khuyến cáo đó mâu thuẫn với bản chất quyền im lặng nên họ có muốn cũng không thể thực hiện cùng lúc vô nghĩa như vậy. Do hiểu sai bản chất về quyền im lặng, nên Đại biểu Đỗ Văn Đương đã hy sinh quyền cơ bản vốn cấu thành con người được coi là mục đích, để nhằm thực hiện công việc điều tra truy tìm tội phạm có kết qủa vốn chỉ là phương tiện phục vụ lại quyền và lợi ích người dân: “việc quy định quyền im lặng của bị can (mục đích) sẽ cản trở hoạt động điều tra trong việc truy tìm xử lý tội phạm (phương tiện)“. Để lý giải việc hoán đổi vị trí giữa mục đích và phương tiện, Đại biểu Đỗ Văn Đương đưa ra tình huống bất bình thường thay cho bình thường: “nếu quá chú trọng vào lợi ích của nhà nước thì quyền của người dân sẽ bị vi phạm, ngược lại nếu mở rộng quá nhiều quyền dẫn tới tùy tiện thì lại gây ra nhiều khó khăn, trở ngại cho công tác điều tra, giải quyết vụ án“. Luật sinh ra được áp dụng đại trà trong điều kiện bình thường nên không thể xây dựng dựa trên các tình huống bất bình thường “quá chú trọng“ hay “mở rộng quá nhiều quyền dẫn tới tùy tiện“ vốn một khi xảy ra sẽ được điều chỉnh bởi luật áp dụng cho tình huống khẩn cấp đó; như khi thiết quân luật, một số quyền cơ bản có thể bị bãi bỏ, nhưng không vì thế mà người ta không hiến định những quyền đó. Cách phản biện sai tiêu thức trên thường thấy trong trao đổi học thuật ở ta làm cho những vấn đề tranh cãi dẫm chân tại chỗ, trầm trọng thêm tình trạng trì trệ thể chế.
Quốc hội Đức từng thông qua luật cho phép bắn hạ máy bay chở khách bị khủng bố cướp, nhưng may tới rào cản Toà án Hiến pháp thì bị chặn lại với lý do, Hiến pháp quy định mọi người đều bình đẳng, nên không thể hy sinh tính mạng người này để cứu người khác. Còn Dự thảo bác bỏ quyền im lặng ở ta liệu những rào cản nào có thể chặn lại? Khi mà nó phủ định một quyền cơ bản mang tính phổ quát thế giới, và vụ án oan điển hình phạt tù chung thân Nguyễn Thanh Chấn tội giết người chỉ bởi thiếu quyền im lặng, vẫn đang nhức nhối dư luận bấy nay.
- Cập nhật từ Hồng Kông: Chính quyền làm mạnh không xong, lại muốn thương thuyết (QC 17/10/2014)- Theo FB Lê Quốc Tuấn
- Sửa chữa sai lầm của Hoa Kỳ về nhân quyền với Việt Nam (QC 17/10/2014)- John Sifton / HRW
- Những bậc quân vương Đầm Lác (QC 17/10/2014)- Nguyễn Hoa Lư/ Blog Nguyễn Hoa Lư
MỘT SỐ Ý KIẾN TRAO ĐỔI
VỀ 2 PHẠM TRÙ “ LÝ THUYẾT” VÀ “THỰC TIỄN”NGÔ THẾ BÍNHTrong luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hay các công trình nghiên cứu khoa học nói chung thường tác giả phải chứng minh cho đề tài đặt ra và cách giải quyết của tác giả là có giá trị cả về lý thuyết và thực tiễn. Vậy thế nào là “lý thuyết” và “thực tiễn” ?Cả 2 cụm từ này đều có nguồn gốc Hán –Việt, và có nhiều định nghĩa trong từ điển [1] [2] [3]. Tuy nhiên, theo tôi cần có định nghĩa chính xác như sau:Lý thuyết (理說)- đó là kết quả khái quát hiểu biết của loài người về hiện tương sự vật trong tự nhiên và xã hội nào đó bằng nêu ra khái niệm, giải thích, chứng minh, dự báo quy luật vận động tương đối phổ biến… của chúng. Thuật ngữ tương đương của “Lý thuyết” là “Lý luận” (理论)Thực tiễn (实 践) - đó là quá trình thực hành, vận dụng lý thuyết của những lĩnh vực khoa học nhất định, nhằm gải quyết những nhiệm vụ cụ thể của con người trong đời sống và lao động sản xuất…Trong sử dụng, không nên lẫn lộn ‘thực tế’(实际) với “thực tiễn”, mặc dù đều có chung từ “thực” (có thực chứ không phải tưởng tượng ra). Ví dụ: đề xuất của tác giả A là sát thực tế chứ không viết hoặc nói là sát thực tiễn.(ý ở đây là đề xuất không phải viển vông, thuần túy lý thuyết mà có căn cứ vào điều kiện cụ thể áp dụng)- Nhưng nếu để chỉ một người mà lời nói không đi đôi với việc làm hay nói một đàng làm một nẻo thì có thể nói người đó lý thuyết không gắn với thực tiễn. Vì thế trong chữ "thuyết"(說) có bộ thủ là chữ "ngôn" (言-lời nói), còn trong chữ "tiễn"(践) có bộ thủ là chữ "túc" (足- hành động đi).Lý thuyết và thực tiễn là 2 phạm trù cơ bản nhất của triết học, có quan hệ mật thiết với nhau. Lý thuyết là là “kim chỉ hướng” cho hành động (thực tiễn) đạt được kết quả mong muốn, hạn chế rủi ro. Thực tiễn là thước đo kiểm chứng lý thuyết, bổ sung hoàn thiện lý thuyết, phục vụ đắc lực hơn cho hoạt động thực tiễn. Những điều nêu trên cũng đã được trình bày nhiều trong giáo trình triết học, và cũng được các nhắc nhở nhiều bởi các nhà nghiên cứu khoa học tiền bối. Trong bài này người viết chỉ muốn trao đổi với các nghiên cứu sinh, học viên cao học một vài nhận thức xoay quanh chủ đề Lý thuyết và Thực tiễn như sau:1) Lý thuyết thường tồn tại ở đâu? Lý thuyết thường tồn tại trong những giáo trình, công trình nghiên cứu được công bố, lưu giữ, truyền tải trên các phương tiện như sách, báo, máy tính, mạng internet v.v… Tùy theo đặc điểm của hiện tượng sự vật dùng làm đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu người ta đã phân chia lý thuyết thành những lĩnh vực khoa học khác nhau. Sự phân chia khái quát nhất là chia thành lý thuyết của khoa học tự nhiên và lý thuyết của khoa học xã hội. Trong tham khảo tài liệu cần phân biệt lý thuyết gốc và lý thuyết thứ phát. Lý thuyết gốc là lý thuyết nêu trong tác phẩm của chính tác giả đề xuất, lý thuyết thứ phát là lý thuyết sao chép lại từ lý thuyết gốc của tác giả khác. Trên thực tế có những tác giả vì những lý do khác nhau không chú thích rõ lý thuyết gốc, người nghiên cứu cần thận trọng, kiểm tra tính chân thực, chính xác trước khi sử dụng.2) Giá trị của một lý thuyết là gì ? Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia [1]- “Một lý thuyết tốt là một lý thuyết có thể giải thích được nhiều hiện tượng, có thể tiên đoán được các hiện tượng mới và được thực nghiệm kiểm chứng.” “Có hai bước để đánh giá một lý thuyết. Thứ nhất, xem xét tính hợp lí của của các giả định. Thứ 2, kiểm chứng các dự đoán của lý thuyết bằng cách so sánh chúng với thực tế. Nếu lý thuyết không thể kiểm chứng thì ta không thể bác bỏ hay chấp nhận chúng và đó không thể là lý thuyết tốt.”Như vậy kết quả thực nghiệm kiểm chứng là thước đo giá trị của một lý thuyết. Về điểm này cần thấy có khoảng cách ngày càng xa giữa 2 loại lý thuyết khoa học tự nhiên và lý thuyết khoa học xã hội. Trong khi khoa học tự nhiên ngày nay đã có những công cụ đo lường, thí nghiệm hết sức chính xác tinh vi thì khoa học xã hội hầu như không thể có thí nghiệm, nhiều dự báo, luận thuyết chưa được kiểm chứng.Ví dụ: Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN do ĐCSVN đề xuất cũng chưa hình thành rõ ràng ngay cả về khái niệm…[ 1],3) Phân biệt lý thuyết và thực tiễn ? Tuy đã có định nghĩa như trên nhưng không ít nghiên cứu sinh vẫn có sự lẫn lộn giữa lý thuyết và thực tiễn. Ví dụ điển hình nhất là coi các văn bản pháp quy của Nhà Nước (luật, nghị định, thông tư…) giống như tài liệu lý thuyết (cơ sở lý thuyết). Văn bản pháp quy về nội dung chỉ là kết quả vận dụng lý thuyết nào đó, đưa ra các yêu cầu các đối tượng chấp hành mà không cần chứng minh, lý giải thậm chí cũng không liên quan đến lý thuyết nào. Nói khác đi, văn bản pháp quy là thực tiễn chứ không phải lý thuyết. Do văn bản pháp quy là thực tiễn nên nó có thể tuân theo hoặc không tuân theo lý thuyết đã được kiểm chứng, được áp dụng phổ biến, thậm chí đưa vào giáo trình lý thuyết luật hoc. Xin nêu ra 2 ví dụ:- Trong Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/09/2006 của Chính Phủ “về lập và phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội” [4] đã đề ra 5 nguyên tắc trong đó có nguyên tắc: “phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”- Như trên đã phân tích nguyên tắc này không mang tính lý thuyết tốt.- “Quyền được giữ im lặng” của người nghi can khi bị bắt trước điều tra viên là quyền được ghi trong luật tố tụng hình sự của rất nhiều quốc gia trên thế giới là kết quả tổng kết kinh nghiệm chống xử tội oan sai và trở thành lý thuyết của ngành luật, thế nhưng trong luật tố tụng hình sự của VN vẫn chưa được đưa vào và vẫn còn tranh cãi tại kỳ họp 31 của UBTVQH. Hậu quả thế nào công luận cũng đã rõ [5]Tài liệu tham khảo1) - http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_thuy%E1%BA%BFt (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)2) - Free Vietnamese Dictionary Project (Hồ Ngọc Đức)3) - Từ điển từ Hán-Việt (Lại Cao Nguyên chủ biên)- NXB Khoa học Xã hội- 20054) - http://www.moj.gov.vn/pages/vbpq.aspx (cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật)5) - “Con đường làng” tư pháp và cỗ xe kinh tế ì ạch (QC 4/10/2014)- Kỳ Duyên (bản gốc)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét