Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

20170430. BÀN VỀ HÒA HỢP VÀ THỐNG NHẤT DÂN TỘC

ĐIỂM BÁO MẠNG
VỀ HÒA HỢP VÀ THỐNG NHẤT DÂN TỘC
VŨ NGỌC HOÀNG/ GDVN 30-4=2017
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng. Ảnh: Tác giả cung cấp.
Mấy hôm nay, qua đài báo, được xem và nghe lại các tư liệu lịch sử hồi tháng 4 của bốn mươi hai năm trước, trong ký ức chúng tôi lần lượt nhớ lại nhiều kỷ niệm, về con người và sự kiện, niềm vui và nỗi buồn, sự xúc động và hào khí non sông… ngày ấy. 
Và từ đó, nhìn lại, suy ngẫm nhiều điều. Về những chuyện đã đi qua, còn đọng lại, đang diễn ra, và kể cả dự báo tương lai, đối với đất nước mình.
      Dân tộc ta, do vị trí quan trọng về địa kinh tế và địa chính trị, trong lịch sử đã phải đương đầu với nhiều thế lực xâm lăng từ phương Bắc và phương Tây. 

Hàng chục cuộc chiến tranh vệ quốc lớn nhỏ đã diễn ra. Các thế lực địch thủ ấy đều hùng mạnh, hơn ta nhiều chục lần xét về so sánh tương quan lực lượng. 

Nhưng dân tộc Việt Nam không khuất phục, không đầu hàng hoặc bị đồng hóa. Đó là nhờ sức mạnh của nền văn hóa và sự thống nhất dân tộc. 

Trong dân tộc, có những con người, nhiều con người, hợp thành một cộng đồng chung. Cá nhân mỗi người đều quan trọng. 

Nhưng nếu chỉ có từng con người riêng rẽ, thì dù có đông bao nhiêu cũng không có sức mạnh. Rất dễ bị bẻ gãy. 
Lịch sử thế giới đã từng chứng kiến, có những dân tộc rất đông người, nhưng đã bị đánh bại và chịu sự cai trị của một đội quân ít người, từ một quốc gia ít người hơn nhiều so với nước bị xâm lăng.
Sức mạnh trường tồn của một dân tộc gắn với văn hóa giữ nước và sự thống nhất bền chặt của dân tộc ấy. Nói đến văn hóa của một dân tộc thì bao gồm sự thống nhất bên trong của dân tộc ấy. 
Và chính đặc điểm thống nhất, bền chặt hay lỏng lẽo, đã tạo ra văn hóa của dân tộc đó. 
Trong quá trình cai trị nước ta, thực dân xâm lược đã từng chia ra 3 miền Bắc-Trung-Nam, với cách cai quản khác nhau, một mặt là để phù hợp với đặc điểm của vùng miền, nhưng cái chính là “chia để trị”, nhằm hạn chế sự thống nhất của dân tộc này. 

Đã có những ý kiến của nhiều người, nói và viết về điều này. (Tất nhiên khoa học còn phải tiếp tục nghiên cứu).
          
Trong lịch sử, chúng ta đã nhiều lần bị mất nước. Một nghìn năm Bắc thuộc, hai mươi năm Minh thuộc, một trăm năm thuộc Pháp, hai mươi năm thuộc Mỹ ở Miền Nam. 

Các thời kỳ ấy, dân ta không có nhà nước của mình, mà chỉ có các tổ chức xã hội tự quản của nhân dân, trước nhất là các làng. 

Cộng đồng làng là một đặc điểm của văn hóa Việt Nam. Các nước khác không có làng như kiểu nước ta. Tất cả các làng ấy hòa hợp, thống nhất với nhau trong một cộng đồng lớn thì thành nước. 

Xã hội và dân tộc Việt Nam lúc đó tồn tại với tư cách là một cộng đồng nhờ các tổ chức xã hội này và các phong trào của nhân dân do các tổ chức ấy tạo nên. Nước mất nhưng làng không mất. 

Với tinh thần và ý chí thống nhất của dân tộc, các làng đã liên kết lại với nhau để cùng giành lại đất nước. Và đã thành công. 

Cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đầu thế kỷ thứ 10, khởi nghĩa Lam Sơn đầu thế kỷ 15, cuộc cách mạng tháng 8/1945 và chiến thắng 30/4/1975 đã giành lại đất nước (và miền Nam) mà trước đó đã mất vào tay xâm lược.
Khi Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia cắt làm đôi suốt hai trăm năm.
Với công lao của nhà Tây Sơn và tiếp theo là nhà Nguyễn, đất nước đã thống nhất. 

Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 do sự tính toán với các ý đồ xấu của một số nước lớn và với sức ép của họ nước ta đã bị chia đôi. 

Ta suy nghĩ và tính toán đó là bước đi tạm thời, rất ngắn, và sau đó sẽ thống nhất lại đất nước. Nhưng một số nước lớn thì lại tính toán với ý đồ khác, họ muốn chia cắt đất nước và dân tộc Việt Nam lâu dài. 

Tại sao họ muốn thế? Ngoài những lý do khác, có một lý do sâu xa, ẩn chứa mưu toan thâm hiểm, đó là, hai nửa Việt Nam không thống nhất họ dễ chi phối hơn một Việt Nam thống nhất. 

Nói cách khác là, hai Việt Nam nhỏ họ dễ chi phối hơn một Việt Nam lớn. Việc đó giống như hai miếng nhỏ dễ nuốt hơn một miếng lớn. 

Dân tộc ta đã kiên trì đấu tranh và tốn nhiều máu xương cho sự thống nhất đất nước, trong điều kiện có những thế lực rất mạnh không muốn ta thống nhất và họ đã tìm mọi cách để ngăn cản, cho đến cuối cùng. 
          
Chắc nhiều người còn nhớ, chỉ có mấy ngày sau khi quân ta vào Sài Gòn thì tiếng súng ở biên giới phía Tây-Nam bắt đầu nổ. 

Thực ra thì họ muốn cuộc chiến ở biên giới ấy nổ ra khi ta chưa kết thúc việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 

Khi cuộc chiến thứ nhất chưa xong, mà cuộc thứ hai đã xuất hiện, thì ta không đủ sức cùng lúc đối phó với cả hai cuộc chiến. Và đất nước không thể thống nhất được. 

Thực tế chứng minh họ đã tính toán như vậy.
Kế hoạch ban đầu của ta là năm 1976 mới kết thúc. Nhưng ta đã về đích sớm hơn một năm so với dự kiến ban đầu, nên cuộc chiến thứ hai chưa kịp xảy ra khi ta đã kết thúc cuộc thứ nhất. 
Với sự thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sự kiện lịch sử 30/4/1975, chúng ta đã giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Đó là sự chiến thắng bởi ý chí độc lập và thống nhất của dân tộc ta.
Nhiều văn bản chính thống và các tài liệu khác đã gọi sự kiện 30/4/1975 là chiến thắng, là đại thắng, là giải phóng miền Nam. 
Cách gọi ấy, theo một nghĩa nào đó, thì vẫn đúng, không có gì sai. Nhưng tôi vẫn thích hơn cách gọi, và cũng đã nhiều lần gọi như thế, sự kiện 30/4/1975 là sự thống nhất non sông (về một mối). 

Đối với quốc gia nào cũng vậy, thống nhất đất nước và dân tộc bao giờ cũng là sự kiện hết sức quan trọng, có ý nghĩa nhân văn và lịch sử to lớn. 

Đối với Việt Nam, sự kiện 30/4/1975 là một sự kiện lớn lao, sẽ trường tồn cùng năm tháng và lịch sử dân tộc. Chúng tôi nghĩ, và tin, như thế!
          
Đất nước đã thống nhất 42 năm rồi. Gần một nửa thế kỷ rồi. Nhiều người ngày ấy còn trẻ, nay đã về hưu hoặc đã không còn sống nữa. Niềm vui đã đến tuy lớn lao, nhưng nỗi buồn vẫn chưa vơi hết. 

Đất nước thống nhất lâu rồi, nhưng dân tộc thì vẫn chưa hoàn toàn thống nhất, thành một khối bền chặt. 

Đây đó vẫn còn những người Việt Nam chưa hòa nhập với đại gia đình Tổ Quốc, dù không ai muốn vậy.
Vết thương chiến tranh trong lòng dân tộc vẫn còn đó, tuy đã bớt đi nhiều nhưng vẫn chưa khỏi hẳn. Mỗi khi trái gió trở trời nó lại đau nhức.
Lãnh đạo chẳng ai muốn vậy. Nhân dân cũng thế. Tổ Quốc luôn sẵn lòng đón mọi đứa con dù tính khí khác nhau trở về với đại gia đình Tổ quốc.
Và mọi đứa con dù đang sống nơi chân trời góc bể nào, dù có quan điểm khác nhau, trong lòng vẫn luôn hướng về đất mẹ. Tinh thần dân tộc và yêu nước vẫn luôn có trong dòng máu của họ. 

Nhưng vì sao dân tộc vẫn chưa hoàn toàn là một? Đây là câu chuyện của một cuộc chiến tranh dài trên đất nước ta, thực tế máu xương đã đổ, dù ta không cố ý gây nên mà do kẻ xấu từ bên ngoài muốn chia cắt lâu dài đất nước này. 

Tất nhiên cũng không nên đổ lỗi hoàn toàn cho hoàn cảnh, mà vẫn có trong đó trách nhiệm của từng người sau chiến tranh, trước nhất là những người lãnh đạo, sau nữa là của mọi công dân. 

Công bằng mà nói, ngày ấy, trước khi kết thúc chiến tranh, Ban lãnh đạo đất nước đã có chủ trương xóa bỏ hận thù, thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc.
          
Ta lại về ta những đứa con. Máu hòa trong máu đỏ như son. Sài gòn ơi, Huế ơi! Xin đợi. Tái hợp huy hoàng cả nước non”. 

Đó là lời thơ của Tố Hữu viết năm 1973, thể hiện tinh thần của Ban lãnh đạo đất nước ngày đó. 

Rất tiếc là tinh thần hòa hợp dân tộc đúng đắn ấy đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ, nhất quán ở mọi lúc, mọi nơi. 

Đã có không ít những sai lầm do tư tưởng hẹp hòi, định kiến, phân biệt đối xử, tạo nên ngờ vực và quy chụp “địch-ta”, đã duy trì hoặc làm trầm trọng hơn hố sâu ngăn cách. 
Trong khi chiến tranh đã kết thúc lâu rồi, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thành đối tác toàn diện của nhau, các cựu thù là người Việt và người Mỹ đã từng xáp chiến quyết tử năm xưa nay đã thành bạn và đối tác của nhau. 
Vậy mà người Việt với nhau vẫn chưa xóa bỏ xong ngăn cách.
Tất nhiên, về mặt khác của tình hình, chúng ta biết có những kẻ cơ hội chính trị đã kích thêm vào hoặc xuyên tạc và bịa đặt thông tin, làm cho trắng đen nhập nhòa, lẫn lộn. 

Nhưng đó là việc khác, điều muốn nói ở đây là về những sai lầm chủ quan, đáng tiếc. 
          
Lại thêm nữa, một bộ phận khác, không liên quan gì đến hai chiến tuyến của thời chiến tranh, có quan điểm khác với lãnh đạo, cũng dễ bị quy chụp là “gây chệch hướng” hoặc “tuyên truyền chống nhà nước”, (mặc dù Đảng đã có chủ trương về sự đa dạng trong văn hóa và tôn trọng tự do tư tưởng), đã vô tình đẩy họ về phía bất đồng chính kiến. 

Vậy là vết thương chiến tranh trong lòng dân tộc vẫn còn, lại cộng thêm vào nữa là sự bất đồng chính kiến của một bộ phận khác, đã làm ảnh hưởng đến khối thống nhất và sự cố kết bền vững của dân tộc. 
Và điều đó là bất lợi cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, nhất là khi có thế lực từ bên ngoài muốn lấn ép nước ta để tranh giành biển đảo.
          
Khắc phục tình trạng chưa hòa hợp, thống nhất ấy là việc quan trọng cần làm, có ý nghĩa chiến lược trên nhiều mặt, kể cả văn hóa, chính trị và kinh tế, để có sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam trong bảo vệ và phát triển đất nước, trước mắt và lâu dài. 
Nghị quyết của nhiều lần đại hội Đảng toàn quốc đã xác định sức mạnh và động lực quan trọng nhất để thực hiện mọi công việc là đại đoàn kết toàn dân tộc. 
Trong di chúc của Bác Hồ để lại cho toàn Đảng, toàn dân, người đã đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất và đoàn kết. 

Hàng triệu con người đã hy sinh trong chiến tranh, có những người còn rất trẻ, trước khi ngã xuống, tất cả đều mang theo niềm tin và thiết tha mong muốn về sự thống nhất đất nước và thống nhất toàn dân tộc. 

Mọi người Việt Nam còn đang sống hôm nay, trước nhất là những người lãnh đạo các cấp, không thể nào quên “lời nguyền” cùng với những người đã hiến dâng cuộc sống cho sự thống nhất dân tộc.
          
Để thực hiện hòa hợp, thống nhất và đại đoàn kết toàn dân tộc, phải có tinh thần cởi mở, khoan dung, có hiểu biết sâu sắc về sự đa dạng văn hóa và tự do tư tưởng cần thiết cho đời sống xã hội như sự đa dạng sinh học cần cho thế giới tự nhiên. 

Nếu làm mất đi tính đa dạng ấy thì xã hội và tự nhiên sẽ nghèo nàn, thiếu sức sống, hạn chế khả năng sáng tạo, mất đi sức đề kháng. 

Nói cách khác là làm yếu đi một dân tộc. Ai cũng biết, nếu chỉ có yếu tố tinh thần, tư tưởng không thôi thì chưa đủ, tất nhiên rồi, nhưng phải bắt đầu từ đó, và đó còn là nền tảng cho trường tồn và phát triển, vì là văn hóa. 

Tiếp theo, và đồng thời, là những chính sách, cơ chế và cách ứng xử cụ thể đối với từng vụ việc và từng con người. 

Từ những việc tưởng là nhỏ, cộng nhiều việc như thế, sẽ tạo ra những chuyển động lớn, khí thế mới, sức mạnh mới, của cả một dân tộc. 

Từ thế hệ hôm nay, chuyển dần sang các thế hệ sau, thành cả một dân tộc ở tầm cao mới, đủ sức là “Phù Đổng Thiên Vương” như mơ ước từ thuở cha ông bắt đầu dựng nước.
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng

CHÚNG TA KHÔNG CÓ QUYỀN LỰA CHỌN DÂN TỘC, NHƯNG CÓ QUYỀN HÀNH DỘNG
VŨ MÃO/ GDVN 30-4-2017

Ông Vũ Mão: Bao dung, tha thứ để cùng nhau hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. ảnh: Ngọc Quang.
Đã hơn 40 năm trôi qua kể từ ngày đất nước thống nhất, câu chuyện hòa hợp dân tộc vẫn luôn là chủ đề được các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đồng bào ta cả ở trong và ngoài nước hết sức quan tâm.
Câu chuyện hòa hợp dân tộc không phải bây giờ mới nhắc đến. Nhớ lại năm 1972, trong bữa cơm với các cán bộ địa phương ở Vĩnh Linh (Quảng Trị), Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đặt ra câu hỏi: “Sau khi Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, việc gì là lớn nhất?”.
Có nhiều câu trả lời đều nói về phát triển kinh tế đất nước, khai thác tài nguyên, phát triển nông thôn... Nhưng, Tổng Bí thư Lê Duẩn thì nói rằng: “Vấn đề lớn nhất sau chiến tranh cần phải làm, đó là hòa hợp dân tộc”.
Nói như vậy để thấy rằng, vấn đề này đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm, đặt ra ngay từ khi đất nước thống nhất. Dù vậy những biến cố trong quá khứ, những vấn đề do lịch sử để lại có nhiều yếu tố phức tạp, cho nên ít nhiều cũng đã tác động tình hình chính trị xã hội nước ta trong những năm vừa qua.
Thời kỳ sau năm 1975 đã có một bộ phận bà con nhân dân ta ra nước ngoài định cư. Cho tới bây giờ đang có hơn 4 triệu kiều bào ở nhiều nơi trên thế giới. Họ là một phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Và, Tổ quốc thiêng liêng luôn đón chào những đứa con xa xứ yêu quê hương, đất nước.
Cũng phải nói rằng vì những vấn đề diễn ra trong quá khứ nên vẫn còn có một bộ phận nhỏ người dân chưa thực sự hiểu biết rõ về chính sách của Đảng, Nhà nước. Thậm chí họ còn bị bị những thế lực xấu lợi dụng để chống lại đất nước, gây ảnh hưởng tới hòa hợp dân tộc.
Xin nhắc lại câu nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế, do đó cũng không thể vững vàng”; “Chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng”.
Quả thật, chúng ta chỉ hòa hợp thật sự nếu như biết chia sẻ, cảm thông cho nhau, hiểu được những mất mát của nhau. Chẳng ai muốn có mất mát, đau thương, nhưng đó là câu chuyện của quá khứ đã lùi xa hơn 40 năm rồi.
Một số bà con kiều bào có lẽ không hài lòng với những điều xảy ra trong quá khứ, thế nhưng nếu một lần đến với nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9 nhìn bạt ngàn các ngôi mộ của người lính, hẳn là mỗi chúng ta đều cảm nhận được rằng nếu cứ mãi hận thù nhau thì những nỗi đau trong từng con người, từng gia đình sẽ lại bị khoét sâu thêm.
Nếu không bao dung, tha thứ, không cùng nhau hướng về tương lai thì vô tình chính mỗi chúng ta sẽ tạo ra cơ hội cho những kẻ xấu lợi dụng phá hoại đất nước, phá hoại những giá trị thiêng liêng mà cha ông ta đã phải đổ xương máu hàng nghìn đời mới có được.
Năm 2006, Báo Tuổi trẻ tổ chức cuộc thi “Chuyện đời tự kể” và anh Trần Đình Ninh – tác giả của bài viết “Lệnh thủ tiêu thành tình giải cứu” đã giành giải nhì.Nói về hòa hợp dân tộc, tôi xin kể với độc giả hai câu chuyện:
Anh Ninh là một người lính của chế độ Sài Gòn. Vào năm 1972 tại chiến trường Quảng Nam, đơn vị của anh Ninh bắt được 3 cán binh Việt cộng tên là Thống, Mùi, Quán. Họ đối xử với ba người bị bắt rất tử tế, cho ăn uống, hút thuốc và không ai bị xúc phạm, đánh đập.
Rồi anh Ninh nhận “Ác lệnh” là phải đem bắn ba người này, nhưng anh đã đưa họ ra bìa rừng chờ đêm tối cho họ trốn thoát.
Tôi nhớ trong câu chuyện anh Ninh kể lại “Tình người với nhau tôi phải cứu các anh. Các anh cứ nằm đây, tối tìm cách thoát thân”. Rồi, anh Ninh bắn vu vơ vài phát đạn, giả như đã thi hành lệnh hành quyết.
Sau khi đất nước thống nhất, vào năm 1976, anh Ninh đang học tập cải tạo tại Quảng Nam thì ba cán binh Việt cộng năm nào tìm tới tận nơi, làm giấy bảo lãnh để anh Ninh ra trại, về sống ở quê tại Quảng Ngãi.
Mặc dù công tác ở xa, nhưng thỉnh thoảng ba anh cán binh Việt cộng năm nào vẫn dành thời gian đến thăm anh Ninh – vị ân nhân giải cứu cho họ năm nào.
Biết được câu chuyện xúc động ấy, tôi đã viết tặng anh Trần Đình Ninh bài thơ “Chiến chinh – tình đời”. Tình người lớn hơn tất cả, cho nên dù lúc ấy làm việc ở hai chế độ khác nhau nhưng vẫn tìm cách bảo vệ, che chở cho nhau.
Câu chuyện thứ hai là vào năm 2006, trong một chuyến công tác tại Mỹ, tôi có đến thành phố Houston (bang Texas). Lúc rảnh rỗi, tôi đến một cửa hàng mua sắm thì tình cờ gặp cô Bùi Lê Cúc là nhân viên bán hàng.
Qua câu chuyện, tôi biết quê cô ở huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cô kể rằng vì bố và anh trai làm việc cho chế độ cũ nên khi tốt nghiệp lớp 12 xong thì gia đình ra nước ngoài sinh sống.
Bây giờ ở Mỹ, cô có cuộc sống ổn định và đã hai lần về thăm Việt Nam, thấy quê hương phát triển, đổi mới rất nhiều. Khi trở lại Mỹ, cô kể cho mọi người nghe chuyện ở quê nhà gặp bà con chan hòa, yêu thương đầm ấm lắm.
Cô cũng cho biết là ở bên Mỹ có một số người lớn tuổi còn định kiến chống chế độ cộng sản, nhưng cô không bao giờ tham gia vì nhận thấy đó là việc làm không đúng.
Dân tộc của chúng ta đã hy sinh quá nhiều, mất mát quá lớn và hậu quả của chiến tranh cho đến tận bây giờ, dù đã hơn 40 năm vẫn chưa thể giải quyết hết. Rất nhiều đứa trẻ sinh ra đã phải chịu tật nguyền, đó là đau thương từ quá khứ vẫn còn kéo dài đến tận bây giờ. Bởi thế mà chúng ta hiểu hơn ai hết giá trị của hòa bình, giá trị của niềm tin, của tình đoàn kết dân tộc trước mọi kẻ thù.
Trong một gia đình chỉ vài người thôi cũng có những lúc bất hòa. Thế nên trong một đất nước rộng lớn với hơn 90 triệu dân và 54 dân tộc với nhiều sắc màu văn hóa khác nhau, nếu đâu đó còn có những quan điểm khác biệt thì cũng là điều dễ hiểu.
Dù vậy, vượt lên trên tất cả, chúng ta hãy cùng chia sẻ, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cùng đối thoại để tìm thấy tiếng nói chung, cùng chung mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Con người ta sinh ra không ai có quyền lựa chọn dân tộc, nhưng chúng ta có quyền quyết định cho hành động của mình. Đó phải là những hành động đúng đắn nhất, là khát vọng đoàn kết để cùng nhau xây dựng Việt Nam thịnh vượng.

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

20170429. BÀN VỀ VĂN HÓA LÃNH ĐẠO

ĐIỂM BÁO MẠNG
ÔNG TRUNG ĐƯỢC 6 ĐIỂM
MẠC VĂN TRANG/ BVB 27-4-2017
Tha 19 nguoi, khong truy cuu trach nhiem hinh su dan Dong Tam hinh anh 4
Ông Chung  vào trong nhà văn hóa thôn. Cùng đi 
là thiếu tướng Hồ Sỹ Tiến (Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an),
Đến nay “Vụ Đồng Tâm, Mỹ Đức” vẫn chưa nguôi luận bàn. Nhiều người khen ông Chung xử lý vụ này hết ý, xuất sắc... Ừ có mặt ưu điểm nổi bật như, ông tự tay viết Bản cam kết 3 điểm, rồi điểm chỉ trước dân làng, đưa UBND xã chứng nhận, đóng dấu, giao cho dân. Đây là ưu điểm rất tuyệt, cần ra sức phát huy! Nhưng còn mấy điểm hạn chế, nên tôi chỉ “chấm” ông 6 điểm trên 10!
Ngày 20/4, 4 giờ chiều ông mới dẫn bầu đoàn về UBND huyện Mỹ Đức và cho 3 xe ca về đón 100 người dân lên huyện đường “đối thoại” (?). Trước thông tin này mình đã viết bài “HỎNG RỒI, ÔNG CHUNG ƠI”! Ông đã nghiên cứu vụ này, trò chuyện với Cụ Kỉnh… mà ông vẫn mắc 1 số thiếu sót đáng tiếc.
1- Ông không tiên lượng được số thời gian cần thiết cho đối thoại, thương thảo. Hàng núi uất hận của người dân, dồn nén bao năm nay, mà 5 giờ chiều 20/4 ông mới đối thoại thì làm thâu đêm à? Rồi ngày 21/4 cũng vậy, 10h ông mới về đến Đồng Tâm, nên cuộc đối thoại, thương lượng căng thẳng kéo dài đến 2h30 chiều dưới cái nóng của lòng người và đất trời, quá căng thẳng với bao nhiêu con người. Ông chủ trì xử lý vụ việc mà không tiên lượng được thời gian làm việc, là khó chấp nhận. Có lẽ lối tư duy hành chính, quan liêu, xơ cứng, làm triệt tiêu sự phán đoán nhạy cảm. Trong khi đó ở bài “ƯỚC GÌ MÌNH LÀ ÔNG CHUNG”, Bọ “sẽ gọi điện cho dân Đồng Tâm đối thoại sớm từ 6h30 cho nó mát mẻ”, cũng dự liệu 12h thì xong và làm bữa cơm đoàn kết với dân làng, thế có thích không?
2- Ông chưa nhận định đúng tâm lý người dân. Ông không biết người dân không còn 1 chút lòng tin nào vào cái UBND huyện Mỹ Đức nữa hay sao? Dân chỉ đòi đối thoại với ông, vậy mà ông lại để đám ở huyện “dây máu ăn phần”? Người dân Đồng Tâm đời nào chấp nhận. Ông tìm hiểu cũng biết bản lĩnh, trí tuệ của người dân Đồng Tâm đâu có vừa, sao có thể “hạ mình” đến cái huyện đường đó đối thoại và lỡ nó cho 3 xe chở 100 người ưu tú của họ vào nhà giam, rồi đánh đổi trao trả 19 CSCĐ thì sao? Điều này chứng tỏ ông cũng kém mẫn cảm tư duy, không thấu hiểu tâm lý người dân và dự báo được phản ứng của họ…
3- Về văn hóa lãnh đạo. Ông chễm chệ ngồi ở huyện đường, cho người gọi dân để được đối thoại với ông? Như vậy là khệnh khạng kiểu quan liêu, phong kiến coi khinh dân, trái với điều ông đã học: “Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép”! Khuyết điểm này thuộc về “tác phong lãnh đạo” hay “Văn hóa lãnh đạo”.
4- Ông còn một thiếu sót về mặt tình cảm đồng chí. Mục đích chính của đối thoại là đáp ứng những yêu cầu chính đáng của người dân để họ thả “con tin” là 19 chiến sĩ CSCĐ đang bị giam giữ. Vậy mà chiều 20/4 ông về huyện rồi quay về Hà Nội, chứ không đến thăm họ, xem tình hình ra sao. Ông có biết đêm 20 rạng 21/4 là một trong những đêm căng thẳng nhất ở Đồng Tâm không? Họ nghĩ ông có thủ đoạn gì, và mọi người dân đều sẵn sàng, có hiệu lệnh là chiến đấu. 19 CSCĐ cũng bị nhuốm trong không khí căng thẳng ngột ngạt đó. Có người viết “Bao nhiêu cặp vợ chồng ở Đồng Tâm và CSCĐ, đêm nay vẫn chưa được về ngủ với nhau”!
Thiếu sót khó chấp nhận nhất về tình cảm là, đáng ra hôm 21/4 khi về Đồng Tâm, việc đầu tiên ông phải làm là đến thăm 19 anh em đồng chí của mình ra sao, rồi sau đó mới đối thoại. Ông đã làm ngược lại, đối thoại đến hơn 12h mới ra “trại giam” và thương thảo kéo dài đến 2h30 chiều! Bao nhiêu con người đói, mệt, căng thẳng kinh khủng..
Từ những yếu kém về tư duy, tình cảm và tác phong như trên, với tư cách một chính khách, ông đã nhận một thất bại cay đắng: Mời dân đến đối thoại ở huyện, đã không một người dân nào thèm đến! Cuối cùng ông buộc phải đến với dân một cách thành tâm, mới giải quyết được vấn đề. Nếu ngay từ sáng 20 ông đã đến Đồng Tâm có phải đẹp không!
Rốt cuộc, ông Chung đã xử lý “Vụ Đồng Tâm” bước đầu hợp lòng dân, Đó là điều cốt yếu. Tuy nhiên, với tư cách người làm Tâm lý học, trong đó có biết đôi chút về Tâm lý học lãnh đạo, xin nêu ra một số nhận xét để cùng rút kinh nghiệm. Hoặc với tư cách 1 Công dân Thủ đô, vì “yêu ông Chung” mà soi kỹ vài đường… để nhớ lâu!
Mạc Văn Trang/(FB Mạc Văn Trang)

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

20170428. BÀN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC

ĐIỂM BÁO MẠNG
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC HAY TRANH GIÀNH QUYỀN LỰC 
NGUYỄN QUANG DY/ Viet-studies 27-4-2017
Kết quả hình ảnh cho kiểm soát quyền lực
“Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối”
“Absolute power corrupts absolutely” (Lord Acton)
Quan hệ nhân quả
Cách đây gần một năm, ông Vũ Ngọc Hoàng (nguyên phó ban Tuyên giáo TƯ) đã làm dư luận ồn ào với loạt bài về “Kiểm soát Quyền lực” (Tuần Việt Nam, 22/9/2016). Những gì ông Hoàng đề cập về cơ bản là đúng (tuy không mới). Chỉ có điều cứ như “đến hẹn lại lên”, dư luận ồn ào rồi lại xẹp xuống, nóng lên rồi lạnh nguội đi. Nay “quả bom Đồng Tâm” lại gây chấn động dư luận, thức tỉnh mọi người như cảnh báo: cái gì phải đến sẽ đến!
Hội nghị Trung ương 5 sắp họp để chuẩn bị thay đổi giữa kỳ. Dư luận lại nóng lên như một cơn sốt định kỳ với chủ đề “nhất thể hóa” vai trò của đảng và chính quyền. Đằng sau câu chuyện về tranh giành và thâu tóm quyền lực còn có một sự thật trần trụi. Vì thu không đủ chi và nợ công chồng chất nên ngân sách thâm hụt ngày càng nan giải, không thể bao cấp mãi một bộ máy nhân sự chồng chéo khổng lồ nhưng thiếu hiệu quả. Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối, và nguồn lực cuả đất nước cũng “cạn kiệt tuyệt đối”.
Mỗi khi tranh cãi về chủ đề quyền lực, người ta thường hay đề cập đến mấy khái niệm cơ bản như: bản chất của quyền lực (nature of power), giới hạn của quyền lực (limits of power), chuyển dịch của quyền lực (power shifts), tham nhũng quyền lực (power corruption), tranh giành quyền lực (power struggle), và giám sát quyền lực (power supervision). 
Các khái niệm trên liên quan đến nhau như quan hệ nhân quả. Quyền lực có xu hướng tham nhũng: quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng tuyệt đối. Chừng nào còn duy trì quyền lực tuyệt đối (không bị kiểm soát) thì không thể kiểm soát được tham nhũng. Chỉ có đổi mới thể chế toàn diện thì may ra mới kiểm soát được quyền lực và tham nhũng.
Trong thực tế cuộc sống, nhiều người bị hấp dẫn bởi ma lực của đồng tiền và quyền lực, nên dẫn đến sùng bái quyền lực. Các nhóm lợi ích thân hữu (nhất là “con ông cháu cha” và “đồ đệ”) thường được hưởng đặc quyền đặc lợi, nên việc kiểm soát quyền lực rất khó. Người dân thường sợ quyền lực nên hay bị chính quyền lợi dụng bắt nạt. Muốn không bị lợi dụng và bắt nạt thì người dân phải “thoát khỏi nỗi sợ” (như bài học Đồng Tâm).
Bản chất của quyền lực
Chính quyền nào cũng phải dựa vào quyền lực (thường là quyền lực cứng). Nhưng bên cạnh “quyền lực cứng” (hard power) còn có “quyền lực mềm” (soft power). Quyền lực cứng thường “đẻ ra từ nòng súng”, nên dễ dẫn đến chuyên quyền và độc tài, cực đoan và vô cảm. Chính quyền không lắng nghe dân, vì coi dân chúng chỉ như công cụ.
Lâu nay, các khẩu hiệu mị dân như “của dân, do dân, vì dân” hay “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” chỉ là bình phong trống rỗng để trang trí. Sai lầm cải cách ruộng đất và cái chết thê thảm của bà Năm (Cát Thành Long) vẫn còn là một nỗi ám ảnh. Người ta nói cách mạng bạo lực như con quái vật, sau khi ăn thịt kẻ khác sẽ quay lại ăn thịt chính mình.
Muốn kiểm soát quyền lực thì trước hết phải thực sự tôn trọng con người và lắng nghe dân. Cơ chế quyền lực phải xây dựng trên nguyên tắc “tam quyền phân lập”, độc lập và cân bằng với nhau để giám sát lẫn nhau (checks and balances). Cơ chế đó phải dựa trên “pháp trị” (rule of law) và tự do dân chủ, để người dân có quyền bầu ra người cai trị mình. Muốn có “quyền lực mềm” để bổ xung cho “quyền lực cứng” phải có xã hội dân sự.
Những khái niệm cơ bản về pháp quyền, dân quyền và nhân quyền là những giá trị phổ quát của nhân loại tiến bộ, chứ không phải là đặc sản riêng của Mỹ và phương Tây. Một số nước phương Đông như Nhật đã chịu khó tham khảo và vận dụng để canh tân nên đã trở thành cường quốc. Chính cụ Hồ cũng đã vận dụng những giá trị phổ quát này trong Tuyên ngôn Độc lập. Nay Việt Nam muốn được công nhận là nền kinh tế thị trường, nhưng lại phủ nhận những giá trị phổ quát kèm theo, là một nghịch lý chẳng khác gì “đầu ngô mình sở”.
Khủng hoảng về tư duy 
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” là một kế sách để đối phó tình huống nhằm lý giải cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị. Nó bắt chước dập khuôn theo khái niệm “kinh tế thị trường XHCN” của Trung  Quốc, nhưng “sáng tạo” bằng cách thêm hai chữ “định hướng” cho mềm đi. Về nguyên lý, đó là một khái niệm tối nghĩa, phản quy luật và duy ý chí. Nó cũng giống như khái niệm “làm chủ tập thể” của ông Lê Duẩn và khái niệm “chủ thể” (Juche) của ông Kim Nhật Thành trước đây (mà bây giờ chẳng ai còn nói đến).
Các khái niệm đó chỉ có giá trị nhất thời như một cách ngụy biện cho một tình huống, chứ nếu ngộ nhận biến thành chủ thuyết và mô hình thì rất nguy hiểm. Nó tạo ra những lỗ hổng chết người về thể chế để các nhóm lợi ích thân hữu thao túng trục lợi. Nay thì mọi ngưởi đã thấy rõ hệ quả khủng khiếp như thế nào rồi. Bài học về “quả đấm thép” Vinashin (và các tập đoàn kinh tế khác) là minh chứng về sự báo hại của mô hình đó. Nguyên bộ trưởng (MPI) Bùi Quang Vinh đã phải bức xúc thốt lên về cái mô hình “làm gì có mà đi tìm”.   
Hệ quả tai hại của tư tưởng cực đoan và “ấu trĩ tả khuynh” muốn chính trị hóa mọi thứ, kể cả tư duy kinh tế, đã kéo đất nước vào một bãi lầy tư tưởng không lối thoát. Chủ nghĩa Mác-Lê “bách chiến bách thắng” đã sụp đổ tại Liên Xô, Đông Âu cách đây 27 năm. Chủ nghĩa Mao cũng đã nằm trong mồ từ sau Cách mạng Văn hóa. Nhưng tàn dư (legacy) của chúng vẫn còn lẩn quất đâu đây như những bóng ma, biến dạng thành các khẩu hiệu cực đoan và tư duy bảo thủ như “chủ nghĩa đặc thù” (exceptionalism) hay “tiệm tiến” (gradualism).
Khủng hoảng về tư duy và ngộ nhận về tư tưởng không chỉ gây ra tụt hậu và khủng hoảng kinh tế, làm cạn kiệt nguồn lực và tài nguyên quốc gia, mà còn dẫn đến khủng hoảng lòng tin, khủng hoảng thể chế, và khủng hoảng chính sách. Đó là một hiệu ứng domino nguy hiểm mà người ta đổ cho “diễn biến” và “suy thoái”. Hệ quả là quyền lực của đảng và nhà nước đã mất tính chính danh (legitimacy), mất lòng dân (unpopular), vì thối nát (decay). 
Sự ngộ nhân về quyền lực thường dẫn đến ảo tưởng và ngạo mạn về quyền lực. Quyền lực tuyệt đối thì ngạo mạn tuyệt đối (và sai lầm cũng tuyết đối). Người Mỹ đã phải trả giá rất đắt trong chiến tranh Việt Nam vì đã ngộ nhận và ngạo mạn về quyền lực nên không hiểu “giới hạn của quyền lực”. Người Việt cũng phải trả giá rất đắt trong thời hậu chiến vì đã ngộ nhận và ngạo mạn về chiến thắng nên đã thua thiệt. Trong cuốn sách “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (The Arrogance of Power, Random House, 1967), thượng nghị sỹ William Fulbright đã rút ra bài học, “Người ta không thể bảo vệ các giá trị nhân văn bằng vũ lực có tính toán và không cần duyên cớ, mà không làm tổn thương chính những giá trị mà họ cố bảo vệ”.
Sự kết thúc của quyền lực
Nếu Francis Fukuyama nối tiếng với cuốn “Sự Kết thúc của Lịch sử” (the End of History and the Last Man, 1992) thì Moises Naim nổi tiếng với cuốn “Sự Kết thúc của Quyền lực” (the End of Power, March 2013). Theo Moisés Naím, “quyền lực đang thối nát” và đang trải qua một sự “đột biến” (mutation) rất cơ bản nhưng “chưa được hiểu và nhận thức đầy đủ”. Đó là một sự dịch chuyển và đột biến của quyền lực chưa từng có trong lịch sử. Quyền lực đang dịch chuyển từ cơ bắp sang trí tuệ, từ phương Tây sang phương Đông, từ những nhà cai trị độc tài sang người dân, từ những tập đoàn lớn sang những công ty khởi nghiệp nhỏ.
Mark Zuckerberg đã chọn cuốn này của Moises Naim để mở đầu chương trình đọc sách năm 2015 (A Year of Book). Điều đó cũng dễ hiểu vì Facebook là một ví dụ điển hình trong đó, ngoài Angelina Jolie, Warren Buffett, Bill Gates & Melinda Foundation. Đó là những quyền lực siêu nhỏ “micropowers” nhưng siêu hạng so với “megaplayers” (như Oxfam, Red Cross).
Lấy một ví dụ để dễ hình dung các giá trị quyền lực đang dịch chuyển: Trong khi ngân sách quốc phòng Mỹ năm 2012 là 700 tỷ USD, thì Al Qaeda chỉ cần 500.000 USD là đủ để gây ra vụ khủng bố 9/11. Không chỉ trong lĩnh vực an ninh mà cả trong lĩnh vực chính trị hay kinh doanh, quyền lực cũng đang dịch chuyển. Những nhóm ly khai, các chính đảng lề trái, các công ty khởi nghiệp, báo chí công dân, và hackers, đang làm đảo lộn trật tự cũ.  
Hiểu quyền lực đang mất đi các giá trị của nó thế nào là chìa khóa để hiểu xu thế quan trọng nhất đang làm thay đổi diện mạo thế giới trong thế kỷ 21. Tác giả dự đoán tương lai còn nhiều bất trắc hơn, qua bầu cử, trưng cầu dân ý, cạnh tranh quyền lực, phân chia lại quyền lực, từ những chủ thể cũ sang những đối thủ cạnh tranh mới. Tác giả lập luận rằng trong kỷ nguyên “hậu bá quyền” (post-hegemonic era) “không một quốc gia nào có đủ khả năng áp đặt ý chí của mình lên các quốc gia khác một cách tuyệt đối và lâu dài”.
Nếu có nguy cơ to lớn nào đe dọa các xã hội dân chủ tự do ở thế kỷ 21, thì ít có khả năng đến từ các mối đe dọa thông thường (như Trung Quốc) hoặc bất thường (như nhà nước Hồi giáo) mà có nhiều khả năng là từ sự phân liệt trong lòng xã hội. Tác giả cho rằng giải pháp khả thi cho sự phân liệt giữa chính phủ và dân chúng là chính phủ phải đổi mới thể chế để phục hồi lòng tin của dân. Theo tác giả, nhân dân phải tự tìm cách chấp nhận bị cai cai trị, và chính phủ cũng phải tìm cách ứng xử xứng đáng với sự chấp thuận đó của người dân.
Tuy việc phân tán và suy tàn của quyền lực là một thách thức to lớn đối với lãnh đạo các quốc gia và chính sách đối nội của họ, nhưng tác giả cho rằng trong lĩnh vực hợp tác quốc tế có nhiều rủi ro hơn. Thế giới đang đối diện với những thách thức ngày càng phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau, mới có thể hóa giải được những bất ổn mới. Quyền lựctrở nên dễ đổ vỡ hơn và khó củng cố hơn, làm cho hệ thống quyền lực toàn cầu có xu hướng khó hồi phục, với những thể chế quốc gia và quốc tế ngày càng yếu. 
Các chính đảng truyền thống và lãnh đạo đang bị đe dọa bởi sự thối nát của quyền lực. Điều đó càng rõ khi các chính đảng lớn phải chuyển giao quyền lực cho các nhóm lề trái.  Quyền lực không còn nằm yên trong mô hình truyền thống khi các đảng phái lề trái tại phương Tây đang trỗi dậy mạnh mẽ, khi vai trò của các thế lực quân sự phi truyền thống ngày càng lớn. Ngày nay, người ta có thể giành quyền lực một cách khá dễ dàng, nhưng lại khó giữ và khó vận dụng nó. Các “megapowers” đang bị gạt ra ngoài lề bởi các “micropowers”.
Thay lời kết
Có thể nói Đồng Tâm là một “micropower” mới và là một hiện tượng đặc biệt như một tác nhân làm thay đổi tư duy của nhiều người, và (dù muốn hay không) làm thay đổi “đột biến” bàn cờ cải cách thể chế tại Việt Nam. Nói cách khác, người dân Đồng Tâm chấp nhận bị cai trị nhưng “có điều kiện” (tức là có “làn ranh đỏ”), trong khi chính quyền Hà Nội đang tìm cách vãn hồi lòng tin của người dân bằng cách đối thoại và nhân nhượng (từng bước) để tiếp tục cai trị. Dù thế nào, đây là một biến chuyển tích cực như một “hệ quả không định trước”, dù động cơ là để kiểm soát quyền lực hay để tranh giành quyền lực. 
Sự kiện Đồng Tâm vừa phản ánh đặc thù của một địa phương tại Việt Nam, vừa phản ánh xu hướng và quy luật chung trên thế giới. Xu hướng này đang diễn ra tại Anh (Brexitism), tại Pháp (Le Penism), tại Philippines (Duterteism), và tại Mỹ (Trumpism). Nó phản ánh sự thối nát và “đột biến” của quyền lực, có thể dẫn đến sự “kết thúc” của quyền lực (hiểu theo nghĩa hẹp, như quyền lực của Đảng Dân Chủ hay di sản của Obama).
Hệ quả tất yếu của sự “diễn biến” và “suy thoái” trong nội bộ đang làm hệ thống quyền lực của đảng và nhà nước mục ruỗng, làm mất tính chính danh của chế độ và lòng tin của dân. Muốn ngăn chặn “hiệu ứng domino” làm cả hệ thống “đôt biến” một cách nguy hiểm (nên đánh chuột lại “sợ vỡ bình”) thì phải súc rửa bình cho sạch, hoặc thay bình mới. Lúc này, muốn khôi phục lòng tin của người dân và cứu vãn chế độ khỏi suy sụp, thì chỉ còn một cách duy nhất là nhanh chóng cải cách thể chế toàn diện, trước khi quá muộn.  
References
  1. “Kiểm soát quyền lực”, Vũ ngọc Hoàng, Tuần Việt Nam, 22/09/2016  
  2.  “The End of Power: From Boardrooms to Battlefields and Churches to States, Why Being In Charge Isn’t What It Used to Be”, Moisés Naím. Basic Books. March 2013
  3. “The limits of power: the end of American Exceptionalism”,Andrew BacevichMetropolitan Books, 2008
  4. Powershift: Knowledge, Wealth, and Power at the Edge of the 21st Century”, Alvin Toffler,  Bantam Books, 1991
  5. New Power Center in Trumpland: The Axis of Adults”, Kimberly Dozier, Daily Beast, April 17, 2017
  6. Is Trumps Axis of Adults Beating Down the Cabal of Crazies?”, Max Boot, Foreign Policy, April 18, 2017
  7. “The Brilliant Incoherence of Trump’s Foreign Policy”, Stephen Sestanovich, Atlantic, May 2017 Issue
  8. “Asia’s American Menace”, Brahma Chellaney , Project Syndicate, April 25, 2017 
NQD. 27/4/2017
 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 27-4-17
PHỎNG VẪN VŨ THƯ HIÊN
NGUYỄN THỊ TỪ HUY/ RFA 17-4-2017
Kết quả hình ảnh cho vũ thư hiên
Nhà văn Vũ Thư Hiên (ảnh internet)
Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH):  Thưa ông, từ khi còn rất nhỏ, tôi đã có dịp nghe đến cuốn « Đêm giữa ban ngày » của ông, được nhắc tới trong các câu chuyện của ba tôi và bạn bè ông ấy. Giờ đây, thật may mắn cho tôi có dịp được trò chuyện cùng ông. Hy vọng, trong tư cách nhân chứng, ông sẽ giúp mọi người nhìn thấy một số mặt khuất trong lịch sử của chúng ta, cái lịch sử vốn còn rất nhiều điều chưa được rõ ràng. Câu hỏi đầu tiên của tôi liên quan đến vai trò của Hồ Chí Minh trong cấu trúc quyền lực của chính quyền cộng sản Việt Nam. Nhiều sử gia quốc tế chứng minh rằng khoảng từ những năm 1960 Hồ Chí Minh không còn có thực quyền nữa. Quyền lực chuyển vào tay bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh. Ông có thể nói gì về điều này ?
Vũ Thư Hiên: Trước hết, để mở đầu câu chuyện, tôi muốn bạn ngoái nhìn bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vào năm những năm 1938-1939, khi Mặt trận Bình dân Pháp (liên minh các lực lượng cánh tả gồm Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản, SFIO,Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế) bị đổ. Chính quyền thuộc địa thừa dịp liền mở một cuộc tổng khủng bố tràn lan – tất cả những người có liên quan với phong trào dân chủ Đông Dương, có xu hướng chống chế độ thuộc địa – các đảng viên cộng sản, quốc dân đảng, kể cả những người thuộc diện tình nghi đều bị bắt. Lúc bấy giờ hai ông Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phải trốn gấp, người đưa hai ông đi trốn là cha tôi, Vũ Đình Huỳnh. Ông Trường Chinh được cha tôi gửi gắm ở nhà ông Trần Văn Vần ở Phúc Yên. Từ Phúc Yên quay về Hà Nội, cha tôi bị Pháp bắt ở ga Hàng Cỏ, đưa vào Hoả Lò. Người duy nhất biết Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt ở đâu bị đưa đi an trí ở nhà tù Sơn La. Mất liên lạc, Trường Chinh ở Phúc Yên cho đến hết năm 1940. Nói thêm: ông Trần Văn Vần không phải đảng viên cộng sản, nhưng đã bảo vệ ông Trường Chinh rất chu đáo.
Vì không tìm thấy quyền Bí thư Trường Chinh đâu, nên một số Trung ương uỷ viên và xứ uỷ Bắc Kỳ đã triệu tập một cuộc họp Trung Ương bất thường và mở rộng tại Bắc Ninh, người được bầu làm tổng bí thư lâm thời là bí thư xứ ủy Bắc Kỳ, Đào Duy Kỳ (tôi nghe ông Đào Duy Kỳ kể, không nhớ thời gian). Sự kiện này tôi không thấy được ghi trong chính sử của ĐCS. Đào Duy Kỳ trả lại cho Trường Chinh vị trí này khi Trường Chinh ra khỏi nơi ẩn nấp. Trong mắt lớp người cách mạng thì việc núp quá kín trong một thời gian dài chứng tỏ Trường Chinh hèn và nhát. Trong giai đoạn đó người ta trọng những người cách mạng trung thành, dũng cảm, còn giỏi hay không giỏi, là cái không ai quan tâm.
Năm 1941 Trường Chinh, cùng một số đồng chí đi qua biên giới đón Nguyễn Ái Quốc. Trong bối cảnh ấy, khi gặp Nguyễn Ái Quốc, Trường Chinh đã kêu to lên rằng : “Lãnh tụ tối cao đây rồi!” Tôi lưu ý bạn câu nói này, nó được ghi trong những hồi ký. Nó đáng được chú ý, vì từ trước chưa ai gọi Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ tối cao, cho dù ông nổi tiếng với tư cách một nhà cách mạng ở ngoại quốc. Tôi nhớ, cũng trong các hồi tưởng về cuộc gặp gỡ này, ông Hồ Chí Minh đã ôm Trường Chinh mà khen ngợi: “Đồng chí này là một người học trò ưu tú của Mác”. Sự xác nhận này là rất tốt, và rất cần thiết, cho Trường Chinh khi ấy.
Chuyện quyền lực về sau này có liên quan tới sự kiện tôi vừa nhắc tới. Nó giúp cho việc lý giải dài hơn, đủ hơn, về quyền lực của ông Hồ Chí Minh trong câu hỏi. Các sử gia quốc tế khi nói về quyền lực trong tay ai cũng chỉ căn cứ vào thống kê những lần xuất hiện của những nhân vật cầm quyền trước công chúng và trên mặt báo để phỏng đoán chứ không thể có bằng chứng văn bản học. Cũng xin nói trước rằng tôi cũng thế thôi, tôi chỉ có thể nói về những gì tôi tôi thấy, tôi nhớ được, cộng với những nhận định mà tôi cho là có lý. Ý kiến của tôi nằm bên ngoài sử học, nó không có gì hơn một tham khảo, hoặc một gợi ý để các sử gia tìm thêm những bằng chứng khả tín.
NTTHTheo những gì ông biết thì Hồ Chí Minh như thế nào vào những ngày Tháng Tám năm 1945?
Vũ Thư Hiên: Khi ấy tôi là một đứa trẻ. Nhưng là một đứa trẻ trong một gia đình cách mạng, được gặp nhiều người về sau trở thành những nhân vật lịch sử, được nghe nhiều chuyện người lớn nói với nhau. Theo ông Nguyễn Lương Bằng (sau là phó chủ tịch nước) thì ông Hồ Chí Minh không nắm rõ tình hình trong nước lắm đâu. Tại hội nghị Tân Trào năm 1945, ông Bằng dẫn cha tôi gặp ông Hồ Chí Minh báo cáo với ông Hồ về phong trào cách mạng ở các địa phương, về những nhân vật mà ông Hồ muốn biết. Dưới vỏ bọc người chào hàng cho các hãng buôn, cha tôi thường xuyên vào Nam ra Bắc để liên lạc, chắp nối giữa các chi bộ đảng với nhau và với nhiều người có tư tưởng chống Pháp, kể cả những tổ chức cách mạng không cộng sản. Cha tôi kể: trong cuộc trò chuyện ấy ông Hồ Chí Minh tỏ ra không nhận được những thông tin chính xác, thậm chí ông còn hỏi cha tôi: ông Huỳnh Thúc Kháng hình như đã “đầu Tây” (đầu hàng), phải không? Cha tôi nói ông vừa gặp ông Huỳnh Thúc Kháng mấy tháng trước, và cho ông biết đó là tin thất thiệt - Huỳnh Thúc Kháng là người rất kiên cường. Kết quả cuộc gặp gỡ này là trong một cuộc họp trung ương đảng vào ngày 27 hay 28 tháng 8 năm 1945, ở phố Hàng Ngang, ông Nguyễn Lương Bằng đã đưa ý kiến cha tôi bỏ công tác quân sự (theo quyết nghị ở Tân Trào thì Võ Nguyên Giáp và Vũ Đình Huỳnh phụ trách quân sự), để làm bí thư cho ông Hồ. Ông ấy rất cần một người như thế ở bên cạnh. Nhân tiện cũng nói để bạn biết thêm rằng vào thời điểm trước Cách mạng tháng Tám, lực lượng cộng sản không có bao nhiêu đâu. Theo cha tôi thì chỉ có chừng dăm bảy trăm đảng viên thực sự tích cực, hoạt động có hiệu quả. Thành công của cách mạng tháng 8 là nhờ lòng yêu nước của nhân dân và thời cơ thuận lợi - Nhật đầu hàng và chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo ra khoảng trống quyền lực để đảng cộng sản phất cờ khởi nghĩa.
NTTHNhư vậy, ông Hồ Chí Minh có vai trò quyết định trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, chứ không phải Trường Chinh?
Vũ Thư Hiên: Theo những đảng viên mà tuổi cách mạng nhiều hơn tuổi đảng (những người hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc từ khi đảng chưa ra đời) bên cạnh một Hồ Chí Minh – Nguyễn Ái Quốc được nói đến như một nhà ái quốc vô song,  cứu tinh của dân tộc, thì vai trò của Trường Chinh khi ấy rất mờ nhạt.  Ấy là chưa kể cái lỗi đi trốn quá lâu bỏ bê việc đảng của ông ta chưa phai nhạt. Chính vì lẽ đó, sau khi lấy được chính quyền, vai trò của ông Hồ Chí Minh là vai trò lớn nhất. Thời gian cuối năm 1945 và suốt năm 1946, Hồ Chí Minh hiển nhiên là ngôi sao sáng chói trên bầu trời chính trị Việt Nam. Ông là người quyết định mọi việc lớn nhỏ - từ việc đối phó với các tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc, đàm phán với các đại diện Pháp, cho tới việc lo dự trữ muối cho cuộc kháng chiến mà ông biết trước sẽ lâu dài… Tôi hay ra vào Chủ tịch Phủ để mang thức ăn bổ dưỡng mẹ tôi làm cho ông Hồ Chí Minh, chạy việc vặt khi ông sai bảo, tôi thấy ông làm việc không lúc nào ngơi nghỉ.
Từ Việt Bắc về Hà Nội, Hồ Chí Minh gầy yếu, sức khoẻ rất kém, ông còn bị lao phổi nữa. Cha tôi lo lắng cho sức khoẻ của ông, mới nhờ người bạn thân là bác sĩ Trần Duy Hưng đến Bắc bộ phủ lo chữa bệnh cho ông Hồ. Tình thân của ông Hồ với ông Trần Duy Hưng bắt đầu từ đấy. Mặc dầu ông Trần Duy Hưng không phải đảng viên cộng sản, nhưng ông Hồ vẫn bảo cha tôi: anh Huỳnh vận động anh Hưng làm chủ tịch Hà Nội đi. Là người xa cách chính trị, nhưng ông Trần Duy Hưng không từ chối việc nước, ông nhận lời và làm chủ tịch Hà Nội từ ngày ấy cho đến khi về hưu. Mọi chuyện thời bấy giờ rất đơn giản thế đấy. Ông Hồ bổ nhiệm nhiều người khác vào chính phủ cũng không xét nét lý lịch, miễn là người không từ nan việc nước là ông mời. Hồ Chí Minh rất hiểu dân chúng chẳng biết Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp hay Phạm Văn Đồng là ai, nhưng tiếng tăm của những nhân sĩ Bắc Hà thì dân biết. Ông thấy cần phải mời các nhân sĩ tham gia chính phủ là ông mời, không cần hỏi ý kiến ai, thậm chí cũng chẳng đòi hỏi họ phải có lập trường chống Pháp. Có sự tham gia của các vị ấy thì chính phủ cách mạng mới có bộ mặt chính phủ của dân tộc, vậy thôi. Các vị vốn là những người có chuyên môn, không biết việc hành chính, khi nhận lời làm việc với những cương vị lớn thì lúng túng lắm, thôi thì cứ theo cung cách của chính quyền thuộc địa và chính quyền Nam triều cũ mà bắt chước, lồng vào đấy một nội dung cách mạng là xong. Cứ xem những văn bản thời bấy giờ thì có thể hình dung ra cái sự lúng túng ấy nó thế nào. Bây giờ người ta tô vẽ cho nó như là một cái gì chính thống lắm, nhưng thật sự không phải như vậy. Mà tô vẽ thế là dại. Chính cái lúng túng ấy là nét đẹp của chính quyền cách mạng.
Về chuyện bổ nhiệm công tác theo cách đơn giản như thế tôi xin kể một thí dụ: khi Trung ương Đảng bàn về việc phân công cho ai làm việc công an thì mọi người đều ngớ ra – chẳng có ai biết việc ấy làm thế nào, tổ chức nó ra sao. Rốt cuộc, ông Hồ cử ông Lê Giản làm Tổng Giám đốc Nha công an. Ông Hồ cho rằng chỉ có ông Lê Giản sau khi được Mỹ giải phóng từ Madagascar, đã được Mỹ đưa đi huấn luyện ở New Delhi (Ấn Độ), xem ra mới là người còn biết tí chút về ngành này. Thậm chí trong sở Liêm Phóng Hà Nội (tên gọi của Sở CA Hà Nội hồi ấy) còn có một cán bộ là nhà văn chưa từng làm công an bao giờ. Người ta cho rằng ông Phạm Cao Củng đã là tác giả các tiểu thuyết trinh thám: “Lê Phong phóng viên”, “Đảng bàn tay ma”... thì ắt phải biết nghề công an nó thế nào.
NTTHNhư vậy, ông Hồ Chí Minh là người toàn quyền quyết định các vấn đề nhân sự trong giai đoạn cuối 1945 và 1946?
Vũ Thư Hiên: Tôi nghĩ vậy. Và những người làm việc với ông Hồ Chí Minh cũng không nghĩ khác. Vào thời kỳ đó mọi công việc của chính phủ đều diễn ra tại Bắc bộ phủ (phủ Thống sứ thời thuộc Pháp). Trong những hồi ký về hai năm đầu của chính phủ cũng không thấy ai nói khác.
NTTH Xin ông nói về chủ trương cải cách ruộng đất, theo hiểu biết của ông?
Vũ Thư Hiên: Khi chủ trương cải cách ruộng đất được đặt ra, ông Hồ có nói với cha tôi: “Chuyện này tôi nghĩ mình chẳng cần phải làm ngay bây giờ, để kháng chiến xong mình làm cũng không muộn. ”Ông Hồ không muốn tiến hành cải cách ruộng đất ngay lập tức, đó là sự thật. Điều cha tôi kể lại cho tôi nghe cũng không phải bịa đặt. Nhưng rồi sau, như ta biết, chính ông Hồ, với tư cách chủ tịch nước, đã ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, năm 1953. Theo lời những cán bộ cách mạng lão thành, mà tôi thấy là có lý, thì Trường Chinh mới là người muốn tiến hành cải cách ruộng đất ngay lập tức. Chủ trương này phù hợp với lời dạy của Mao Trạch Đông (cách mạng vô sản phải tiến hành song song hai nhiệm vụ phản phong và phản đế, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực). Người ta đã vội vã tiến hành cải cách ruộng đất dưới chiêu bài ấy, không nhằm mục tiêu cải cách ruộng đất thực sự đâu. Nó mang mục đích chính trị. Có thể lý giải sự việc như thế nào? Để cải cách ruộng đất phải có những cuộc điều tra kỹ càng về tình hình ruộng đất, nước nào cũng vậy. Nhưng đã không có một cuộc điều tra nào như thế, trừ sự sử dụng vài con số thống kê do người Pháp làm trong thời thuộc Pháp. Ý đồ được ẩn giấu là: gạt ra ngoài lớp người đã tham gia từ đầu việc cướp chính quyền năm 1945 – những người không coi trọng tôn ti trật tự trên dưới, mà coi mọi người tham gia cách mạng đều bình đẳng. Mà, theo Trường Chinh, tôn ti trật tự là cái rất cần cho cách mạng, để thực hiện những mục tiêu của cách mạng.
NTTHVậy có thể hiểu: người chủ trương cải cách ruộng đất ngay lập tức là Trường Chinh?
Vũ Thư Hiên: Cuộc cải cách ruộng đất có mặt nổi và mặt chìm của nó. Từ năm 1949, khi biên giới Trung-Việt đã thông và nhiều đoàn cố vấn quân sự của Trung Quốc sang Việt Nam thì tình hình đổi khác hoàn toàn. Mọi sự được rập theo khuôn mẫu Trung Quốc (Mao), từ việc nhỏ đến việc lớn. Các bạn khó hình dung cảnh này: khi một viên tướng Tàu cần dùng ngựa thì một người lính Tàu lập tức chạy đến để viên tướng nọ dẫm lên lưng mình mà lên yên. Chưa hết, tướng Tàu đi đâu cũng có một toán lính phục dịch: lính bảo vệ, lính vác đệm, chăn, màn, gối cho tướng ngủ, lính cấp dưỡng lo cơm nước, lính giám mã chăm lo ngựa. Thế nhưng ban lãnh đạo đảng cho thế là phải, thế mới là tôn ti trật tự cách mạng. Ảnh hưởng Tàu vào miền Bắc Việt Nam lúc đó mạnh lắm. Ở bên Tàu có chỉnh đốn tam phong (văn phong, tác phong, đảng phong) thì ở ta có chỉnh huấn, chỉnh quân. Mọi tài liệu huấn luyện để dạy dỗ chúng tôi đều là sách dịch từ các tác phẩm của các lãnh tụ Tàu: Mao Trạch Đông , Lưu Thiếu kỳ, Ngãi Tử Kỳ…Một cán bộ vận áo đại cán (áo kiểu Tôn Trung Sơn), ngực đeo huy hiệu Mao Trạch Đông, túi áo gài bút máy Kim Tinh là một cán bộ được ngưỡng mộ vì được huấn luyện ở bên Tàu về. Những phát ngôn của anh ta trong những hội nghị, những cuộc học tập được coi như chân lý không thể phản bác. Thậm chí chuyện mức ăn trong quân đội cũng phân biệt đẳng cấp: đại táo, tiểu táo, trung táo. Đặc táo là mức ăn cao nhất, với nghĩa đặc biệt, là cái trên hết các thứ “táo”. Nó không có giới hạn. Mọi thứ đều được sao chép nguyên xi của Tàu. Như vậy ảnh hưởng Tàu trong việc tiến hành cải cách ruộng đất là sự đương nhiên. Nó phù hợp với ý muốn của Trường Chinh - người lãnh đạo đảng.
Tôi nói chuyện chuyện ảnh hưởng Tàu để dẫn tới một lý giải chưa chắc đã được sự đồng tình, vì nó khác với những gì từng được viết ra về cải cách ruộng đất. lý giải ấy thế này: mấy năm đầu kháng chiến bộ đội là do dân nuôi, chẳng có đảng nào nuôi hết, kho bạc nhà nước cũng chẳng có đồng nào. Dân nuôi bộ đội, cán bộ là sự thật. Nhưng không phải là dân nói chung, lại càng không phải là bần cố nông nghèo khó, mà là những người có của (thị dân, địa chủ). Vào thời gian ấy họ được tâng bốc là những nhà hằng tâm hằng sản, trong thực tế chính họ mới là những người có khả năng đóng góp cho kháng chiến. Bấy giờ những người chỉ có vài ba mẫu ruộng (mẫu Bắc bộ bằng 3600 mét vuông, không phải hectar bằng 10.000 mét vuông), cũng đã bị gọi là địa chủ rồi. Trong sự đồng tâm hiệp lực cho mục đích cao cả là đánh Pháp giành độc lập mọi người đều thấy mình bình đẳng, với nhau, và cả với những người cầm quyền. Quan niệm bình đẳng là quan niệm tự sinh, tự nó có, trong dân chúng cũng như trong quân đội. Võ Nguyên Giáp mà đến đơn vị chúng tôi thì cũng ngồi ăn với chúng tôi, không phân biệt quan lính. Quan niệm bình đẳng ấy, khốn thay, lại là cái làm cho Trường Chinh và những người như ông ta không ưa. Trường Chinh thèm được dân sùng phục mình như những người ở vị trí tương đương ở bên Tàu. Muốn dẹp quan niệm bình đẳng thì phải thanh toán những kẻ mang tư tưởng ấy – những người tham gia từ những ngày đầu cách mạng. Từ đó mới sinh ra sự triệt hạ những người đang nắm quyền ở nông thôn, thường là những người đã tích cực đóng góp cho cuộc kháng chiến, gọi họ là cường hào, ác bá. Song song với cải cách ruộng đất là cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương phụ trách. Người ta chụp lên đầu những người đang cầm quyền ở nông thôn đủ mọi nhãn hiệu: tay sai đế quốc, làm việc cho Phòng Nhì của Pháp, là đảng viên các đảng phản động chống phá cách mạng - Quốc Dân Đảng, Đại Việt vv… Rốt cuộc, bằng cách tước đoạt tài sản của những người bị dán nhãn hiệu cường hào, ác bá với mọi loại phản động bị đấu tố, bị xử bắn, xử tử rồi đem chia cho bần cố nông là những người chưa hề tham gia cách mạng, chưa hề có công với cách mạng, họ sẽ mang ơn các lãnh tụ, mang ơn đảng. Và cái quan trọng hơn cả là sau khi xoá bỏ chính quyền cũ ở nông thôn, chính quyền mới được dựng nên  sẽ tuyệt đối trung thành với tôn ti trật tự mới. Hiểu được cái mục đích che giấu ấy ta sẽ thấy cải cách ruộng đất không hề sai lầm – nó đã làm được cái việc nó cần làm. Biết trước việc làm sẽ như thế nào sao có thể gọi là sai lầm? Chỉ vì nó lỡ trớn, vượt quá cái người ta mưu toan, chỉ vì bị phản ứng mạnh ngay trong đảng và ngoài xã hội mà phải thừa nhận rằng có sai và phải sửa sai mà thôi.
NTTH: Thế còn những nhân sĩ đã tham gia chính phủ lâm thời, có chức vụ cao trong chính phủ mấy năm đầu trong thời kỳ cải cách ruộng đất, họ ra sao?
Vũ Thư Hiên: Các nhân sĩ trí thức tham gia chính phủ kháng chiến không bị đụng đến trong cải cách ruộng đất. Nhưng nói chung các vị ấy cũng bị ảnh hưởng của cách đối xử theo lối Trung Quốc. Mốc 1949 là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến từ sự tồn tại của một nhà nước mưu cầu độc lập sang một nhà nước lệ thuộc. Di chứng của nó, như nay ta thấy, kéo dài mãi về sau. Nói về thái độ trong quan hệ của ông Hồ Chí Minh với các nhân sĩ trí thức tôi muốn nói lời công bằng, như tôi thấy - đối với các vi ấy ông Hồ có sự trọng thị thật sự. Ông rất giữ lễ xưa trong khi gặp gỡ các cụ cao tuổi như cụ Bùi Kỷ, Bùi Bằng Đoàn, tôi được chứng kiến. Thêm một thí dụ: khi đến thăm gia đình ông Trần Duy Hưng, bao giờ ông Hồ cũng xin phép được vào chào cụ thân sinh ông Hưng trước đã. Cách cư xử như thế có thể là do truyền thống trọng sĩ phu ngày trước chưa mất đi trong lòng ông. Với ban lãnh đạo đảng cộng sản thì không được như vậy. Ngay từ đầu, họ coi các nhân sĩ nọ như một thứ hàng hóa bắt mắt, chỉ để bày. Ở trong khu an toàn các nhân sĩ vẫn còn được giữ những chức vụ trên danh hiệu như năm 1945-1946, tuy công việc về thực chất từ đây đã do các đảng viên nắm, với chức vụ khiêm tốn chỉ là phụ tá, là phó trong các cơ quan. Nhưng tới giữa năm 1950 (tôi nhắc lại, khi lối sống Trung Quốc được tích cực sao chép) đã hoàn toàn thống trị, thì tất cả các nhân sĩ đang ở khu An toàn huyện Sơn Dương đều bị đưa lên cư trú bắt buộc tại huyện Chiêm Hoá (huyện phía Bắc tỉnh Tuyên Quang) ngồi chơi xơi nước.
NTTH Ai là người đưa ra quyết định đó?
Vũ Thư Hiên: Cũng là Trường Chinh, nhiều người nói thế, tôi thấy có lý.
NTTHÔng Hồ không có can thiệp gì vào việc đó sao? 
Vũ Thư Hiên: Tôi không thấy sự can thiệp nào của ông ấy. Là Chủ tịch đảng, trên danh nghĩa, nhưng ông Hồ vẫn phải tuân theo mọi quyết định của Bộ Chính trị, đứng đầu là Trường Chinh. Bác lại Bộ Chính trị à? Trong việc đưa các nhân sĩ đi tập trung ở Chiêm Hóa chắc chắn không phải sáng kiến của ông ấy.  Theo nhiều người nhận xét, Hồ Chí Minh là người nhu nhược. Tôi nghĩ khác - ông ấy chẳng mấy quan tâm tới số phận những người ông ấy từng mời mọc hợp tác trong chính phủ lâm thời.
NTTH: Hồ Chí Minh ở trong khu kháng chiến có chứng kiến và có biết trực tiếp những chuyện xảy ra lúc đó tại các địa phương trong việc xử lý cải cách ruộng đất không?
Vũ Thư Hiên: Theo tôi nghĩ, chứng kiến và biết trực tiếp thì không, nhưng ông Hồ có nhận được những báo cáo chứ, sao không, có điều chúng là những báo cáo không trung thực.
NTTH: Còn cái vụ ông Hồ bịt râu đi xem hành quyết bà Năm, như đồn đại, ông nghĩ sao?
Vũ Thư Hiên: Tôi không tin đồn này. Thứ nhất là từ Núi Hồng, chỗ Hồ Chí Minh ở, cho đến làng Đồng Bẩm, nơi đấu bà Nguyễn Thị Năm, khoảng 75 đến 80 cây số đường chim bay. Để ông Hồ di chuyển chừng đó cây số, theo lệ thường, phải có ít nhất một trung đội bảo vệ và một tiểu đội tiền trạm. Đội tiền trạm phải đi trước xem xét chỗ ông ấy sẽ nghỉ, trung đội bảo vệ với ông ấy đi sau phải bố trí ở quanh ông. Ông Hồ cưỡi con ngựa được đặt tên cao ủy Pháp Bolaert chỉ đi từng bước, không bao giờ phi nước kiệu hay nước đại, phải từ hai ngày rưỡi tới ba ngày mới tới được Đồng Bẩm. Cái version ông ấy bịt râu xem đấu khó tin lắm. Đám bảo vệ bao quanh ông lúc nào cũng lom lom nhìn vào mặt từng người đứng gần ông trong đám đông, chẳng giấu được ai, thể nào người ta cũng nhìn ra, không ngay lập tức, thì sau đó, không người này thì người kia. Tác giả Đèn Cù là người duy nhất ghi lại tin đồn, ngoài ra tôi không được nghe ở nguồn nào khác.
NTTH: Còn bài báo tố bà Năm ký tên CB thì sao, thưa ông?
Vũ Thư Hiên:  Bài đó là của ông Hồ, do chính ông ấy viết. Với việc ký sắc lệnh cải cách ruộng đất, ông ấy là tội đồ dân tộc. Cần sòng phẳng trong việc này. Tội thì phải gọi là tội.
Tôi không tin câu chuyện ông Hoàng Tùng viết trong hồi ký rằng ông Hồ không muốn xử chết bà Năm, nói: “Không nên đánh người đàn bà dù bằng một cành hoa”. Nếu ông Hồ  cương quyết chống lại việc làm ác độc ấy, chắc chắn nó không thể xảy ra. Nhưng ông đã buông xuôi, theo ý Trường Chinh “cần mở màn cải cách ruộng đất bằng một bản án mạnh”. Ở đây có một cái gì đó khó giải thích, một nghịch lý cùng tồn tại trong một con người chăng? Những gì tôi thấy ở ông Hồ trong những dịp gần ông, quan sát ông, tôi không có cảm giác ông một người ác, nói cách khác không mang bản tính ác. Hẹp hòi thì có, chấp nhặt cũng có. Thấy cán bộ dùng xà phòng thơm, ông bĩu môi khinh bỉ, nhưng chỉ thế thôi, không phê phán nặng lời, không kỷ luật. Có lần ông sai thư ký Vũ Kỳ gọi tôi đi dịch cho ông nói chuyện với chuyên gia Liên Xô ở nhà máy điện Vinh, tôi thoái thác, tôi kêu tôi đau đầu, để không đi. Thế rồi khi bắt quả tang tôi không chịu làm việc cho ông để đi chơi với bạn gái, ông cũng chẳng nói gì. Tôi nghĩ, ông ấy, cũng như nhiều người khác ở cương vị lớn mà tôi biết, nhúng tay vào tội ác mà không hề áy náy, nhờ ẩn nấp dưới chiêu bài ý thức tổ chức. Đảng đã quyết, thì ta làm, đảng bao giờ cũng sáng suốt. Người bản tính không ác vẫn an nhiên làm những việc ác là thường tình. Họ bịt miệng lương tâm bằng sự biện minh rằng  họ làm ác chẳng qua để thực hiện thiện. Ở những nước xưng chuyên chính vô sản hiện tượng này xảy ra nhiều lắm lắm, chẳng cần phải dẫn chứng.
NTTH Danh sách những người bị đấu tố và bị giết trong cải cách ruộng đất có được đưa lên cho ông Hồ duyệt không?
Vũ Thư Hiên: Làm gì phải đến ông Hồ? Mạng người trong cải cách ruộng đất chẳng là cái gì hết. Tất cả những người bị đấu tố, rồi bị lên án tử, chỉ đưa lên đến Đoàn uỷ là hết. Bí thư Đoàn ủy ký xong thì đem bắn.
NTTH: Đoàn uỷ là cái gì, ở đâu?
Vũ Thư Hiên: Dưới ủy ban cải cách ruộng đất là các Đoàn ủy cải cách ruộng đất. Nó là một tổ chức thi hành cải cách ruộng đất. Một tỉnh lớn có thể có hai Đoàn uỷ, tỉnh nhỏ một Đoàn uỷ. Dưới Đoàn ủy là các Đội. Các đội đi đến các làng, sống cùng với nông dân, làm các công việc được gọi là thăm nghèo, hỏi khổ, bắt rễ, xâu chuỗi để làm công việc cuối cùng là đấu tố địa chủ (với các thứ cường hào, ác bá, và các thứ đảng phái phản động khác luôn thể), chia quả thực (các thứ thu được), chia ruộng đất. Để hiểu hết từ ngữ chuyên biệt của thời kỳ này cần phải đọc các sách viết về cải cách ruộng đất, chúng hoàn toàn khó hiểu với người không sống trong thời kỳ đó.
NTTH: Như vậy phải chăng trong việc bổ nhiệm cán bộ sau năm 1946 ông Hồ không thực sự có quyền ?
Vũ Thư Hiên: Ông Hồ Chí Minh không còn bao nhiêu quyền lực như năm 1946, bắt đầu sớm hơn, nó ít dần từ năm 1947 kia, khi chính phủ rời Hà Nội lên Việt Bắc, theo cha tôi. Chủ tịch phủ thời kháng chiến đóng ở Thác Dẫng huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) hầu như rất ít công việc. Tôi có thời gian ở đấy, khoảng độ nửa năm. Tôi và anh Phạm Sĩ Liêm (sau làm phó chủ tịch Hà Nội) cùng làm việc ở đó như một thứ nhân viên văn phòng, làm cả việc chép sách kinh điển mác-xít, cả việc chạy công văn khi hai cậu liên lạc tên Bính và Phoóng, người Tầy, lên cơn sốt rét. Quan sát công việc của Chủ tịch phủ lúc bấy giờ tôi thấy nó giống một cái cơ quan hành chính rỗi việc. Các sắc lệnh do bên đảng quyết, các cán bộ chủ tịch phủ soạn văn bản, ông Hồ Chí Minh ký. Phủ chủ tịch không phải, không hề giống cơ quan chỉ huy cuộc kháng chiến chống Pháp. Nói nó là đại bản doanh của chính phủ kháng chiến như người ta miêu tả là nói quá. Những quyết định quan trọng cho cuộc kháng chiến là ở những cuộc họp, chúng diễn ra không phải ở một nơi nhất định, chắc chắn không ở thác Dẫng. Chủ tịch phủ không phải là nơi điều khiển công việc điều hành đất nước. Tất cả các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến đóng trong một khu an toàn (gọi tắt là ATK) , có một trung đoàn bảo vệ, lấy bí danh là tiểu đội Thanh Sơn. Có thể nói sự xa cách về địa lý giữa các cơ quan cũng làm cho ông Hồ dần mất quyền quyết định trong mọi việc. Nơi ông Hồ ở là Núi Hồng cách thác Dẫng không xa. Ông thường chỉ ra thác Dẫng khi tiếp khách. Mọi cơ quan đều mang bí danh: Chủ tịch phủ là ban Kiểm tra 12, Bộ nội vụ là Tiểu đội 1. Bộ Thông tin Tuyên truyền là Ban canh nông xã Công bằng. Nha công an Việt Nam là Ông Cả Nhã hiệu Việt Yên. Các cơ quan đều ở cách nhau khá xa, gần nhất cũng năm bảy cây số đường rừng. Liên lạc giữa các cơ quan đều dùng người chạy công văn, không có điện thoại dây hoặc phương tiện khác. Ngay giữa chủ tịch phủ và nơi ông Hồ ở cũng liên lạc bằng công văn chạy bộ. Lúc bấy giờ Hồ Chí Minh không còn nhiều người ở bên cạnh như khi ở Hà Nội. Trong tình hình ấy vai trò của ông Trường Chinh khác trước rất nhiều. Vì sao? Vì tất cả các tỉnh uỷ, tức là hệ thống đảng, là do Trường Chinh nắm, mà nguyên tắc đảng lãnh đạo thì cả hệ thống hành chính đều tùy thuộc vào nó (đảng). Sự chỉ huy này không nằm ở chủ tịch phủ. Một thí dụ: Trung Quốc nhiều lần nhắc nhở, mà nhắc nhở ông Trường Chinh, chứ cũng không cần nhắc nhở ông Hồ Chí Minh, rằng để một người do đế quốc đào tạo làm Bộ trưởng Bộ công an là không được. Bên Trung Quốc không làm như thế. Ông Hồ có hỏi cha tôi nghĩ sao về việc thay ông Lê Giản bằng Trần Quốc Hoàn. Cha tôi trả lời : “Anh Hoàn ở tù cùng với tôi ở Sơn La. Người này không có học. Bộ này cần người có học”. Chuyện Trần Quốc Hoàn là người thế nào tôi có viết trong hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày”. Vì ăn cắp chữ chì có hàm lượng antimoine cao của nhà in IDEO để bán cho các lò đúc gang, Trần Quốc Hoàn bị bắt. Trong tù, Hoàn được mấy ông cộng sản thương tình khuyên là nên khai lấy chữ chì cho đoàn thể để in truyền đơn, thì sẽ được xem là tù chính trị, sẽ không bị đánh đập như tù hình sự. Thế là Trần Quốc Hoàn trở thành tù chính trị. Lúc đó Lê Đức Thọ cũng ở Sơn La. Lê Đức Thọ lấy em vợ của ông Đặng Châu Tuệ, một cán bộ cách mạng lão thành, bà này có một cửa hàng sách ở Nam Định, hằng tháng gửi cho chồng 5 piastres (năm đồng bạc Đông Dương), trong khi giá gạo chưa tới 2 piastres một tạ. Lê Đức Thọ chỉ cần thuê Trần Quốc Hoàn chừng 5 hào (50 centimes) là đủ để Trần Quốc Hoàn vui vẻ phục dịch Thọ mọi việc hàng ngày. Sau này người hầu mẫn cán được Lê Đức Thọ nhớ đến, đưa lên làm Bộ trưởng Bộ công an. 
NTTH:  Nhưng nếu nói là Hồ Chí Minh không có thực quyền thì công lao của ông Hồ đối với hai cuộc kháng chiến nằm ở đâu ?
Vũ Thư Hiên: Nằm ở hình ảnh ông ấy, được ngành tuyên truyền dày công dựng nên. Ông được thánh hoá trong sự sùng bái, cứ như thể ông là người lãnh đạo trong mọi việc. Trong thực tế, công việc chỉ huy (tôi không muốn dùng chữ lãnh đạo với ý nghĩa người có được sự đồng thuận của nhân dân coi là người chỉ đường cho mình) nằm trong tay Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp, (về danh nghĩa thì có cả Phạm Văn Đồng, nhưng ông này chẳng quyết định việc gì), tiếp đến là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ. Căn cứ vào một bằng chứng duy nhất được nhiều người biết thì đến năm 1964 ông Hồ mới thực sự bị loại khỏi hệ thống quyền lực. Bằng chứng ấy là:trong một cuộc họp với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên vào năm này, Tố Hữu đã nói: “Ông Cụ lẫn cẫn rồi. Bây giờ mọi việc do anh Ba và chúng tôi đảm nhiệm”. Mà Tố Hữu, uỷ viên Ban Bí thư trung ương đảng, có thể coi như người phát ngôn chính thức của ban lãnh đạo đảng.
NTTHVấn đề là tại sao bộ máy quyền lực phải tuyên truyền cho ông Hồ ? Tại sao trong kháng chiến chống Pháp ông Trường Chinh không làm một chiến dịch tuyên truyền hình ảnh của mình ?
Vũ Thư Hiên: Trường Chinh có muốn thế cũng không được. Trong đảng lúc ấy còn rất nhiều người tính về thâm niên cách mạng còn hơn Trường Chinh. Họ không dễ tán đồng một sự sùng bái như thế. Vào giai đoạn năm 45-46 ông Hồ đã là một ngôi sao sáng rồi, sáng đến mức không thể dập tắt được, để có thể thay thế bằng một ngôi sao khác. Ông Hồ được tuyên truyền rộng rãi như một người suốt đời tận tuỵ với dân tộc, không ham hố quyền lực cũng như danh vọng. Trường Chinh không thể nào sánh bằng. Người ta chỉ có thể tuyên truyền cho vai trò Trường Chinh bằng cách phát hành lẫn vào chân dung các lãnh tụ cộng sản quốc tế: Marx, Engels, Lenin, Stalin, với Hồ Chí Minh và Trường Chinh được treo ở vị trí thấp hơn. Những chân dung màu đẹp đẽ được in ở bên Tàu, bằng giấy tốt, được phát không cho dân chúng, được trang trọng treo ở các nhà bên trên cái gọi là ban thờ tổ quốc. Tôi cho rằng trong một bối cảnh như thế ông Hồ cũng chẳng cần đến quyền lực, nó chẳng để làm gì, một khi ông đã được đàn em bê lên bệ thờ, được mê mẩn trong khói hương với những bản tụng ca không lúc nào tắt tiếng ở bên dưới.
NTTH:  Một câu hỏi ngoài lề: trong sinh hoạt, ông Hồ Chí Minh là người thế nào?
Vũ Thư Hiên: Theo tôi biết, mà biết chắc, về chuyện ăn uống, ông là người rất giản dị, có thể dùng chữ “đạm bạc”. Trong kháng chiến chống Pháp, mọi thứ đều thiếu. Mọi người chiều ông, rất quan tâm bữa ăn cho ông, ông muốn ăn gì chẳng được, nhưng tôi biết, ông không hề đòi hỏi. Bữa ăn của ông thường chỉ có rau dưa, vài khúc cá kho mặn (người Nghệ mà). Người ta chiều ông đến nỗi khi nghe ông nói thèm cà Nghệ, thế là cà Nghệ được chuyển từ Nghệ An, qua bao nhiêu tỉnh, qua cả vùng địch chiếm, để mang tới Việt Bắc quả cà còn tươi nguyên. Đó là lòng dân, là chuyện có thật, chính tôi được ăn ké món cà muối xổi. Trong ông Hồ, theo tôi thấy, bằng mắt mình, có một anh nông dân thâm căn cố đế. Tôi nhớ những lần ông ra thác Dẫng, anh Phạm Sĩ Liêm khoe bí đỏ đậu nhiều lắm, thế là ông tức tốc ra vườn cùng anh Liêm kiếm cái lót dưới quả bí non để nó không bị thối, còn tôi thì có thể lợi dụng thời gian đó ung dung xoáy của ông vài điếu thuốc lá cho hai đứa. Phải rất nông dân thật thà mới nói thế này với ông bà Trần Duy Hưng: “Cô chú đông các cháu, hằng tháng cho các cháu lên ăn với tôi một vài bữa".  Lời kể của ông Trần Duy Nghĩa, con bác sĩ Trần Duy Hưng, cho tôi thấy thêm một lần chất nông dân của ông, khi đứa trẻ Trần Duy Nghĩa vô ý làm vãi vài hạt cơm trong bữa ăn với ông Hồ. “Cháu phải biết: cái này là của ngọc thực, nông dân phải làm lụng một nắng hai sương mới ra được hạt gạo, cháu nhặt lên mà ăn nhá!” – ông nhẹ nhàng bảo. Đức tính tiết kiệm của ông được nói đến nhiều, được ca ngợi nhiều, nó cũng là sự thật. Bên cạnh sự thật ấy có một sự thật khác. Ông Hồ không thể bỏ thói quen nghiện thuốc lá ngoại. Thuốc lá ngoại thời kháng chiến rất đắt, phải mua ở các chợ giáp ranh giữa vùng giải phóng và vùng tạm chiếm, tiền mua vài bao thuốc có thể nuôi sống một gia đình nông dân đông con một tháng. Ông nghiện thuốc lá Mỹ: Craven A, Phillips Morris, State Express 555, đôi khi là Camel, không bao giờ ông hút thuốc lá Pháp như Bastos, Melia, Cotab. Tôi không biết nếu người ta không chiều ông, lo thuốc lá Mỹ cho ông hút thì tình hình sẽ ra sao? Ông có hút thuốc sừng bò như bộ đội không? Người ta đã chiều, và tôi nghĩ chiều thế cũng phải thôi, ông dù sao cũng là chủ tịch một nước, mà ông không có đòi hỏi gì hơn. Tôi có đọc một hồi ký buồn cười khi thấy tác giả viết rằng người ta dùng một đại dội biệt động áp tải cả tạ thuốc lá từ Hà Nội ra cho ông Hồ hút. Cứ như thể ông ấy hút mỗi ngày vài tút, và thuốc lá dự trữ không bao giờ bị mốc. Còn chuyện khi về Hà Nội ông có đầu bếp riêng, ông thích ăn ngon, với những món ăn khó kiếm như gà Quảng Châu vv…, tôi không được biết, thời kỳ này tôi không còn có dịp gặp ông, được ăn cùng ông để biết bữa ăn của ông thế nào, nhưng tôi tin những bài viết ấy là thực. Cái gọi là tiêu chuẩn cho “lãnh tụ”. nó còn hơn suất “đặc táo” trong kháng chiến rất nhiều. Các ông “lãnh tụ” tự cho mình có quyền được hưởng những thứ mà dân thường không thể hình dung, là chuyện bình thường. Có hẳn một “Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương” lo toan đủ thứ cho các vị được sống sung sướng, sống hạnh phúc cơ mà. Cái gì ta không biết, ta có thể tưởng tượng.
 Có nhiều người cho rằng trong việc chuyển đổi thể chế từ độc tài cộng sản sang dân chủ phải bắt đầu từ việc giải thiêng hình tượng ông Hồ Chí Minh. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi cho rằng những cuộc đấu tranh nhằm vào những sai trái của thể chế hiện tại, đấu tranh từng điểm một, tiến lên từng bước một, đưa đấu tranh từ ngoài vào trong, khuyến khích đấu tranh từ trong ra ngoài, mới là cái quan trọng sẽ dẫn tới sự chuyển đổi mong muốn.
NTTH: Xin cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn này.