Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

29170209. BÀN VỀ THAM NHŨNG TẠI TRUNG QUỐC

ĐIỂM BÁO MẠNG
ĐẶNG TIỂU BÌNH ĐÃ GÓP PHẦN TẠO RA MỘT NƯỚC TRUNG HOA THAM NHŨNG NHƯ THẾ NÀO ?
BÀO ĐỒNG/The New York Timesngày 3-6-2015/ BVN 8-2-2017
clip_image002
Christina Hagerfors
Vài lời giới thiệu về tác giả
Bào Đồng (鮑彤), sinh năm 1932, nguyên Trung ương Ủy viên khóa XIII, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban cải cách thể chế kinh tế quốc gia, nguyên Thư ký chính trị kiêm Chánh văn phòng của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Triệu Tử Dương.
Bị bắt ngày 28 tháng 5-1989, ngay trước vụ đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn, mãi đến 1992 mới được đưa ra xử và bị kết án 7 năm tù giam. Ông bị biệt giam tại Tần Thành giam ngục, nhà tù duy nhất thuộc quản lý của Bộ Công an, nơi giam giữ các yếu nhân, cho đến hết thời hạn, ngày 27 tháng 5-1996. Ông đã giúp vào việc xuất bản và viết lời giới thiệu cho cuốn Tù nhân của nhà nước – Nhật ký bí mật của Thủ tướng Triệu Tử Dương (bản gốc tiếng Hán có tên là Cải cách lịch trình – 改革歷程).
Người dịch:  Bùi Xuân Bách và Nguyệt Cầm
***
Trong cả tháng qua, tôi bị cấm trả lời phỏng vấn, và do đó tôi dành bài viết này kỷ niệm hai mươi sáu năm ngày trấn áp mồng 4 tháng Sáu năm 1989, khi chính quyền đè bẹp mọi bất đồng chính kiến trong các thành phố trên cả nước.
Một tin nổi bật trong những ngày này là chiến dịch chống tham nhũng của Đảng Cộng sản. Trong ba năm kể từ Đại hội Đảng XVIII, cái Đại hội đã dựng nên thế hệ lãnh đạo Trung Quốc hiện nay, Chính phủ đã kêu gọi các quan chức “đả hổ, diệt ruồi” – một ẩn dụ nhắm tới mọi loại tham nhũng, lớn và nhỏ.
Trong khi Chính phủ, từng thời kỳ, cũng có trấn áp việc ăn hối lộ, đút lót, nhưng chưa từng có chiến dịch chống tham nhũng nào lên tới mức độ này. Song điều đó không có nghĩa là không có tham nhũng.
Thực ra, trong suốt hai thập niên từ sau cuộc Tuần du Hoa Nam [“Nam tuần giảng thoại” – “南巡讲话”] năm 1992 nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình – khi đã bán chính thức về hưu, ông ta đi xuống Quảng Đông để đẩy mạnh việc giải phóng kinh tế một cách quyết liệt – các quan chức của Đảng Cộng sản ở mọi tầng bậc đều lặng lẽ làm giàu. Khoan dung với tham nhũng, quả thật, là một phần của những gì Đặng đã phóng tay.
Đặng, lãnh tụ tối cao từ 1978 cho đến khi chết năm 1997, ngày nay được tôn sùng như một anh hùng. Và, cũng giống như Mao Trạch Đông trước ông ta và Tập Cận Bình sau ông ta, Đặng đang được Đảng trưng ra như một nhà lý‎ luận chính trị. Tuy nhiên, chẳng hề có cái gì là Lý luận Đặng Tiểu Bình, cũng như không hề có cái Lý luận Tần Thủy Hoàng.
Giống như Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên đã xây dựng chế độ trung ương tập quyền của Trung Quốc, Đặng sử dụng vũ lực, chứ không phải lý luận. Ông ta sử dụng quyền lực mà Mao đã giành được cho Đảng Cộng sản, làm đòn bẩy đưa Trung Quốc đi theo con đường mới của ông ta “con đường Đặng Tiểu Bình” – tới vực thẳm tham nhũng.
Song có một điểm khác biệt. Chỉ còn có ít người ngày hôm nay ca tụng việc Tần Thủy Hoàng “phần thư khanh nho” [焚書坑儒 – đốt sách, chôn nhà nho], nhưng khói từ những nén nhang được đốt lên để ngợi ca “con đường Đặng Tiểu Bình”, tiếp tục bay tới tận thiên đình.
Tập trung chú ý vào việc tham nhũng tràn lan ở Trung Quốc ngày hôm nay mà quên đi vai trò của Đặng, thì cũng chả khác gì chuyện đổ tội cho “Bè lũ bốn tên” về việc phá hoại ầm ĩ thời Cách mạng Văn hóa (1966-1976) mà tảng lờ vai trò của Mao.
Hãy để một số người làm giàu trước đã
Câu nói nổi tiếng của Đặng là, để khai phóng kinh tế, Đảng cần phải “để cho một số người làm giàu trước”. Đó là một trong những chính sách sáng tạo nhất mà một lãnh tụ Đảng Cộng sản đã chủ trương, trong khi nó mâu thuẫn trực tiếp với mục đích thành lập Đảng.
Thời Đặng đi tuần du phương Nam đó, tôi còn trong tù, sau khi bị thanh trừng năm 1989 cùng với sếp của mình, nguyên Thủ tướng và Tổng Bí thư Đảng Triệu Tử Dương.
Thoạt tiên, khi tôi đọc những văn bản được công bố, tôi quả thật không hiểu, ông ta nhắm tới mục tiêu gì. Cái điều gây ấn tượng sâu sắc chính là giọng điệu cứng rắn của ông ta, được minh họa bằng ba dòng, và được trích dẫn khắp mọi nơi: “Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt! Ai không tán thành cải cách, hãy từ chức đi! Một số người sẽ làm giàu trước!”.
Mặc dù giọng điệu của Đặng cứng rắn, nhưng những nét đại cương và cả thực chất chính sách của ông ta thì lại không rõ ràng. Ai sẽ là những người đó, những người làm giàu trước?
Đặng có thể ám chỉ những người mà lẽ ra Đảng Cộng sản phải đại diện: “liên minh Công Nông”. Hoặc, có lẽ, những giai cấp mà chỉ gần đây mới được Đảng phục hồi: “địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phần tử xấu, phần tử hữu khuynh”. Ông ta có thể, thậm chí, nói tới tầng lớp trí thức, với hiểu biết và những kỹ năng công nghệ của họ. Song câu trả lời đúng không nằm trong những câu trên. Những người làm giàu trước hóa ra là các đảng viên và gia đình, cùng các cộng sự gần gũi của họ.
Câu hỏi “ai sẽ phải làm giàu trước” chẳng phải là trừu tượng. Đặng chắc chắn hiểu rất rõ – như ngạn ngữ nói – rằng tòa nhà sát mép nước sẽ nhận được ánh trăng đầu tiên. Nói cách khác, có những nhóm người nhất định sẽ ở vào vị trí tốt nhất để tận dụng những cơ hội mới.
Trong cái xã hội hậu 1989, quyền lực của Đảng đã chặn đứng mọi bất đồng xã hội, cải cách chính trị bị bóp nghẹt và các tổ chức có thể có ảnh hưởng mạnh đều bị cấm đoán gây rối ren, viễn cảnh cho một người dân thường lao vào biển cả kinh doanh là không sáng sủa. Chưa nói tới chuyện giàu có, họ đã may mắn nếu không bị chết đuối. Thử nghĩ tới tầng lớp nông dân rộng lớn, những người bị pháp luật cấm di chuyển vào thành phố (do những yêu cầu về hộ khẩu, chúng giới hạn các gia đình chuyển địa điểm sinh sống từ tỉnh của họ, nếu không được phép), hoặc đội quân công nhân bị các doanh nghiệp nhà nước giãn thợ. Đó chính là kết quả cuộc cải cách kinh tế của Đặng.
Thành quả cuối cùng trong cuộc cách mạng của Đặng là ai có quyền lực lớn sẽ giàu to, ai có quyền lực nhỏ sẽ giàu ít, và những người không có quyền lực sẽ vẫn sống trong nghèo đói.
Kinh doanh ở Trung Quốc như thế nào
Trong cuộc tuần du phương Nam, Đặng đã đặt ra câu khẩu hiệu nổi tiếng nhất của ông ta: “Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột, đó là con mèo tốt”. Việc Đặng ủng hộ nền kinh tế thị trường đã dấy lên một làn sóng các hoạt động kinh doanh quét qua khắp nước Trung Hoa và xa cả ra ngoài biên giới của nó. Cái biển kinh doanh này của Trung Quốc là khác biệt bởi vì Đảng kiểm soát tất cả mọi chuyện. Để có hiệu lực, nó điều hành một số lớn những bãi cạn, mà những người đang bơi trên biển phải đi qua. Dưới bề mặt là những con sóng nguy hiểm.
clip_image004
Một poster tuyên truyền của Đảng Cộng sản ở Thâm Quyến với hình ảnh Đặng Tiểu Bình, tỉnh Quảng Đông, vẫn còn thu hút khách du lịch. CreditTyrone Siu/Reuters
Trong những biển dữ đó, nếu anh không trả giá cho quyền được kinh doanh, anh có thể sẽ phải đối mặt với sự can thiệp của các quan chức Đảng. Các doanh nghiệp nhà nước cũng gây khó khăn cho việc kinh doanh của anh. Các quan chức Trung Quốc quả là có tài năng thực sự trong việc gây khó dễ cho quần chúng.
Trong câu chuyện về sự lớn mạnh của Trung Quốc, những anh hùng không được ngợi ca chính là những “con mèo tốt” của Đặng.
Họ phải trả cho ai? Nói trừu tượng thì là cơ quan Đảng, và cụ thể là các quan chức Đảng – từ nguyên Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính trị Châu Vĩnh Khang suốt cho tới các cán bộ huyện, xã.
Những dòng chảy ngầm của nền kinh tế thị trường, vốn đã bị chôn vùi trong nhiều thập kỷ, nay nó phun trào ra từng chút, từng chút một và làm ngập những con đê xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường giờ được hợp nhất với nhà nước-đảng trị, mà trong quá trình đó nó mất đi những đặc điểm của sự chọn lựa và cạnh tranh thực sự tự do. Thay vào đó, thị trường sẽ phải tuân thủ lợi ích của những cán bộ cao cấp trong Đảng. Từ những vốn mạo hiểm [venture capital] tới chứng khoán mới lên sàn, từ ký hợp đồng tới kiểm tra chất lượng sản phẩm, đó là cách mọi việc được sắp xếp. Không có ngoại lệ.
Quan chức trong Đảng là cơ thể của Đảng. Trật tự kinh tế mới đồng nghĩa với việc phải chi trả cho các dịch vụ của cơ thể này. Các doanh nhân chung tay với quan chức để thúc đẩy Tổng sản phẩm nội địa (G.D.P.). Đây không những là một giải pháp tốt cho những người làm kinh doanh, mà còn tạo cơ hội cho giới quan chức ghi dấu ấn về thành tích công tác. Trong nghĩa rộng hơn, nó thúc đẩy sự phát triển của nhà nước-đảng trị.
Cơ chế thị trường bị bóp méo này phá hủy sinh kế, lãng phí tài nguyên thiên nhiên, tàn phá môi trường và đe dọa sẽ gây ra nhiều tai ương cho các thế hệ tương lai. Nhưng các ưu tiên chính trị buộc người ta phải quên đi những thiệt hại thứ phát đó.
Những ưu tiên này được thể hiện qua các khẩu hiệu như “phải nhìn tổng thể”, “chú ý đến toàn cục”, “tiểu đạo lý phục tùng đại đạo lý” (nghĩa là hy sinh các nguyên tắc nhỏ hơn cho các nguyên tắc lớn hơn) và “ngạnh đạo lý áp đảo nhuyễn đạo lý” (nghĩa là các ưu tiên chủ yếu sẽ áp đảo các ưu tiên thứ yếu). Thay vì thừa nhận là họ đang thực hiện điều mà các nhà kinh tế gọi là thu tô – bòn rút một phần của cải vào túi họ, thay vì làm ra của cải – các quan chức thích tưởng tượng là họ đang trung thành với đường lối của Đảng “làm những việc lớn.”
Ở Trung Quốc, nếu bạn muốn “làm những việc lớn,” bạn cần mua rất nhiều chỗ dựa. Bạn phải trả tiền cho quan chức ở chức vụ cao đến mức nào tùy thuộc vào việc bạn dự định sẽ gây dựng ảnh hưởng ở cấp làng, cấp huyện, tỉnh hay thậm chí cấp quốc gia. Các quan chức của Đảng, dù ở những cấp thấp nhất, cũng có thể quyết định cho phép ai thành công và thịnh vượng trong lãnh địa của họ.
Một khi lợi ích của họ được bảo đảm, một quan chức sẽ trở thành một cổ đông, người sẽ bật đèn xanh cho công việc của bạn. Chừng nào mà ông ta còn kiếm chác được, thì việc một dự án sẽ làm lợi hay gây hại cho công chúng chẳng nghĩa lý gì. Chủ đầu tư có thể yên tâm là quan chức đó sẽ chi phối những “năng lượng tích cực” để dẹp bỏ mọi trở ngại. Mô hình hợp tác kiểu này có thể chẳng làm gì để bảo vệ môi trường, thỏa mãn nhu cầu nội địa hay thúc đẩy tính liêm chính công, nhưng rõ ràng là nó giúp gia tăng Tổng sản phẩm nội địa (G.D.P.).
Đã hơn 65 năm kể từ khi Trung Quốc có được một nền dân chủ, bất kỳ hình thức nào. Tính chính danh của nhà nước-đảng trị ngày hôm nay phải dựa vào các con số thống kê về tăng trưởng kinh tế. Đối với các quan chức, không có bằng chứng thành tích nào rực rỡ hơn thế. Tham nhũng và phát triển nắm tay nhau cùng tiến.
Mao Trạch Đông quốc hữu hóa tài sản cá nhân. Đặng Tiểu Bình chuyển giao tài sản quốc gia, với cái giá rất hời, chủ yếu mang tính tượng trưng, vào tay giới tinh hoa của Đảng. Kết quả là hiện nay, “các thái tử” – hậu duệ của thế hệ cách mạng sáng lập Đảng, kiểm soát phần lớn của cải ở Trung Quốc.
Công chúng có nhận biết những sự việc này, nhưng phần lớn đảng viên các cấp chỉ giữ im lặng. Họ hiểu điều gì đang xảy ra, và biết rằng họ chẳng có lựa chọn nào khác ngoài việc làm đúng theo chính sách ấy. Đây là mục đích của chuyến Tuần du Hoa Nam, để bảo đảm sự ổn định trong toàn đảng khi đường lối mới được thi hành.
Di sản của sự kiện 1989
Vào ngày mùng 4 tháng Sáu năm 1989, Đặng Tiểu Bình hạ lệnh cho Nhân dân Giải phóng quân sử dụng vũ lực đàn áp một số đông những sinh viên đấu tranh ôn hòa – tại Quảng trường Thiên An Môn và các thành phố khác trên khắp Trung Quốc – những người kêu gọi chấm dứt tham nhũng và đẩy mạnh tiến độ cải cách.
Chấn thương mùng 4 tháng Sáu là một cuộc biến động to lớn. Trong tình trạng không ai dám lên tiếng, thì tất cả mọi người đều mất quyền được nói, tất cả mọi người đều mất quyền được định hình cải cách, và tất cả mọi người đều bị xô đẩy theo dòng. Kết quả là mục đích cải cách của thập niên 1980 đã bị phá hủy đến tận gốc. Công cuộc tự do hóa kinh tế do Đảng lãnh đạo lẽ ra nhằm cởi trói cho cả giai cấp công nhân và chủ doanh nghiệp, giải phóng năng lượng cho họ, tạo điều kiện kinh doanh sinh lợi và chia sẻ lợi nhuận. Nhưng sau cuộc bể dâu 1989, lợi nhuận và tài nguyên đã được phân chia theo quyền lực.
Qua hành động của mình vào ngày mùng 4 tháng Sáu, Đặng Tiểu Bình đã vạch ra những đường ranh giới mới để định nghĩa kẻ địch. Đảng sẽ bảo vệ cho tham nhũng, và bất kỳ ai chống lại tham nhũng do Đảng đỡ đầu, sẽ trở thành kẻ tử thù của cả Đảng và quân đội.
Tiếp theo Đại hội Đảng lần thứ XVIII, phong trào “đả hổ diệt ruồi” như một chuỗi sấm sét nổ khắp Trung Quốc. Công cuộc thanh trừng tham nhũng có vẻ như là một sự kiện mở ra kỷ nguyên mới, nhưng có lẽ tác dụng to lớn nhất của nó là việc mở mắt cho người dân. Lá cờ đỏ của Trung Quốc, nhuộm đẫm máu bao liệt sĩ, đã trở thành nơi trú ẩn của kẻ ác và cách hành xử xấu xa. Hàng quân đoàn quan chức tham nhũng bị vạch mặt có thể chỉ là phần nổi của tảng băng trôi, nhưng những bộc lộ này cũng đã đủ làm lu mờ tất cả các ví dụ về tham nhũng từng thấy ở Trung Quốc hay nước ngoài. Không có cách nào có thể tiếp tục che giấu sự tham nhũng toàn thể từ trên xuống dưới này, và không có cơ hội nào có thể xóa bỏ những thông tin về tham nhũng trong tâm trí người dân.
Việc Đảng chiến đấu chống tham nhũng được trình bày là để phục vụ lợi ích công chúng, nhưng nếu các công dân độc lập – thành viên của các tổ chức xã hội dân sự, cũng tham gia vào cuộc chiến ấy, thì việc đó lại trở thành phạm tội.
Cũng như thời 1989, các phong trào quần chúng chiến đấu chống tham nhũng bị đàn áp thẳng tay. Những người dân bị ngược đãi và ức hiếp ở Trung Quốc không được nhận bồi thường theo luật pháp, dù qua hệ thống tòa án hay khiếu tố với chính quyền trung ương. Quả thật, những người đã tố cáo tham nhũng thường bị đưa ra xét xử hoặc bỏ tù. Các giá trị phổ quát như minh bạch và trách nhiệm bị bôi nhọ là công cụ do những kẻ thù địch ở nước ngoài sử dụng để gây rối. Trong khi đó, quyền lực can thiệp vô hạn của đảng chỉ có tăng lên, vì nó đã chiếm dụng những khái niệm như pháp quyền, công nghệ và toàn cầu hóa.
Liệu nhà nước-đảng trị có thực tâm chống tham nhũng, thậm chí đến mức mạo hiểm cả sự tồn vong của Đảng? Như nhiều người từng nói, điều này thì chỉ có giới lãnh đạo chóp bu mới biết được.
Tôi muốn nói hai điều. Thứ nhất, chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục đi theo con đường mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra, nó sẽ không giải quyết triệt để được nạn tham nhũng. “Đả hổ diệt ruồi” không phải là phương thuốc cứu chữa từ gốc đến ngọn; thậm chí còn không giảm nhẹ được những triệu chứng nặng nhất. Hổ còn ngao du khắp chốn, và ruồi còn che kín mặt trời: có thể tấn công cả trăm, hoặc cả ngàn trong số chúng, nhưng điều đó sẽ không thay đổi được bản chất của con đường tham nhũng. Nhưng tôi vẫn lạc quan, vì nếu giới lãnh đạo Trung Quốc quyết tâm từ bỏ con đường Đặng Tiểu Bình, thì vẫn có hy vọng.
Thứ hai, lại đến mốc tưởng niệm sự kiện mùng 4 tháng Sáu. Nhiều người đang mong chờ các nhà lãnh đạo của đảng tự nguyện thừa nhận sự bất công và phạm pháp của việc giết chóc. Đây cũng là hy vọng của tôi. Nhưng tôi không lạc quan, vì đến tận giờ, không có nhiều dấu hiệu cho thấy điều này sẽ xảy ra. Liệu một ngày nào đó điều ấy có thể xảy ra hay không trong tương lai, thì tôi chịu không nói được.
Nguồn: New York Times
BẠO LỰC CÁCH MẠNG LÀ ĐỔI MỚI LẦN HAI CỦA ĐẢNG?
 MẪN NHI/VNTB/ BVN 9-2-2017
Bằng những cách thức khác nhau, Đảng đang tự tô vẽ nhằm làm mới mình, đó có thể là một Chính phủ kiến tạo do ông Nguyễn Xuân Phúc phát động; cũng có thể là cuộc chiến chống tham nhũng nhằm giữ gìn chế độ của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Khó có thể nói được, ĐCSVN sẽ làm được điều gì trong cải tạo kinh tế - xã hội. Nhưng rõ ràng, họ sẽ làm mọi thứ để bảo vệ được chế độ. 
Đảng tô vẽ?
Trong những bất trắc mà Đảng đối diện, tham nhũng vẫn là một Đảng nạn số 1. Cơ chế độc quyền chân lý đã khiến Đảng tràn quyền lực, khiến mỗi cá nhân trong Đảng nắm giữ chức vụ đều tìm mọi cách để lung đoạn quyền lực nhằm thu vén cá nhân.
clip_image002
Đảng tiếp tục phụ thuộc vào lực lượng vũ trang trong xoa dịu bức xúc nhân dân?
Trong một diễn biến gần đây, Bộ Công thương – “nhà mẫu giáo” đạt chuẩn về lạm dụng quyền lực của Đảng tiếp tục là mục tiêu phanh phui của báo chí, dư luận và cả bộ phận phòng chống tham nhũng. Bà Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa là con tốt kế tiếp, khi bị tố cáo là sở hữu tài sản lớn trong một doanh nghiệp cổ phần (lên đến 718 tỷ đồng). Hàng trăm tỷ đồng đối với một cá nhân Đảng viên là rất bình thường trong chế độ này - kể từ khi Đảng dỡ bỏ lệnh cấm làm làm kinh tế. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh đảng đang cần sơn lại hình ảnh của mình trong mắt người dân, thì đó là một con số “nghiêm trọng”.
Dù vậy, chống tham nhũng đến mức độ nào thì mục tiêu sau cùng không hẳn là minh bạch trong quản trị nhà nước, mà là giữ cho bằng được sự lãnh đạo của Đảng. Nghị Quyết T.Ư 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa' trong nội bộ” vẫn là “đặc sắc” trong nhóm sự kiện nổi bật của quốc gia mà ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trong thừa nhận trong lần trả lời báo Dân Trí gần đây. Nhưng Nghị quyết mà ông Tổng Bí thư nhấn mạnh là nghị quyết hành động, buộc cả hệ thống chính trị vào cuộc chỉ được gióng lên khi ông nhận ra cái Đảng mà ông đang phục vụ và phục vụ cho gần 4 triệu người đang đánh mất dần tính chính danh của nó.
Do đó, trong một sự kiện liên quan đến báo chí, với sự tham gia của bộ sậu Chính trị Việt Nam, khi đề tài về chống tham nhũng, cụ thể là vụ “Phó chủ tịch Hậu Giang” giành giải C thì giải A lại được trao cho một nhóm tác giả báo Quân Đội Nhân Dân với tác phẩm “Phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng - vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta” hay “Đẩy lùi suy thoái trong Đảng” của nhóm tác giả Ban Thời sự - Đài truyền hình Việt Nam. Điều đó biểu hiện rõ nét, Đảng sẽ làm mọi cách để tạo “lối thoát” cho chính mình, bằng sự cải cách nửa vời như 1986?
1986 cải cách kinh tế, giờ là cải cách chính trị?
Đổi mới năm 1986 xuất phát từ tình hình hỗn loạn trong nước lẫn áp lực thay đổi từ khối Đông Âu lẫn Liên Xô. ĐCSVN tìm lối thoát bằng cách phá bỏ nền kinh tế kế hoạch, giải phóng cầm chừng sức sản xuất từ mọi cá thể trong xã hội. Tuy nhiên, vì muốn đảm bảo sự cầm quyền của Đảng, nên đó là cải cách nửa vời nhằm kéo dài cuộc khủng hoảng. Chính vì vậy, 30 năm sau Đổi Mới - Việt Nam lại rơi vào hệ quả của cuộc “Đổi mới 1986” khi một quốc gia phát triển theo hướng công nghiệp – hiện đại năm 2020 đã bị dời lại vô thời hạn; định nghĩa “nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” trở thành một câu chuyện phiếm ngay cả trong giới quan chức nhà nước; tự suy thoái liên quan trực tiếp đến cá thể Đảng viên suy thoái tụt dốc không phanh - ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh cầm quyền của Đảng; điều hành chính trị thực sự không ổn định như cách Đảng tự đề cao – khi nội bộ chỉ còn giữ được sự “thống nhất cao” về mặt lý thuyết.
clip_image004
Chính phủ Kiến tạo tiếp tục là lý thuyết cho "sơn vẽ" chế độ năm 2016, sau 30 năm Đổi Mới nửa vời.
Năm 2016, đầu năm 2017 câu chuyện về Đổi mới tiếp tục được nhắc lại. Dù Đảng né tránh khẩu hiệu “Đổi mới hay là chết” nhưng thực tiễn đã chứng minh, niềm tin của người dân vào Đảng đang chết dần. Vấn đề nằm ở việc, Đảng tìm cách sử dụng lại chiêu trò 1986, khi mọi Đổi mới hiện giờ chỉ xoay quanh việc tìm cách thay đổi về mặt kinh tế bằng phương diện bên ngoài, làm nảy sinh ra cái gọi “kiến tạo”. Thực tế, nó chỉ là kế thừa Đổi mới kinh tế năm 1986, tiếp tục giải phóng sức sản xuất ở các thành phần, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Nhưng so với năm 1986, lần “kiến tạo” này không đạt mức độ “Đổi mới”, vì nó vẫn bị bó buộc vào trong cái gọi là “định hướng kinh tế”, chưa kể mọi cải cách lần này nếu diễn ra sẽ bị tác động bởi internet và toàn cầu hóa – tức Đảng không còn che giấu được kết quả kinh tế như thập niên 80 của thế kỷ 20. Trong khi đó, cuộc chiến quốc nạn (tham nhũng) lại là một cuộc chiến “ta chống lại ta”, khi dàn lãnh đạo hầu hết đều nhúng chàm, nhóm lợi ích khuynh đảo cả một hệ thống quyền lực với sự thống nhất cao. 
Lối thoát cho Đảng là gì? Thay đổi về chính trị, hay nói đúng hơn là Đổi mới về mặt Chính trị, “giải phóng sự tham chính” trong dân. Tuy nhiên, giải pháp này không được Đảng chọn. Vậy Đảng sẽ làm thế nào?
Bạo lực vũ trang – giữ gìn chế độ
Đảng vẫn loay hoay “sơn vẽ” để bình lại bức xúc của dân chúng nhằm bảo vệ bằng được chế độ.
Trong Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 72 vào cuối năm 2016, ông Nguyễn Phú Trọng đã có phát biểu dài hơi, trong đó thừa nhận “chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, trong khi thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.” Ông Tổng bí thư dành ½ bài phát biểu để căn dặn về nhiệm vụ và vai trò của lực lượng công an trong sự khó khăn của quốc gia. 
Ông nhấn mạnh liên tục “công tác bảo vệ Đảng, đường lối Đảng, chính sách, chủ trương Đảng”, ông khẳng định thẳng lực lượng công an phải chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh theo đúng nghĩa của cụm từ này. Công an nhân dân phải là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuyệt đối kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa. Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân phải là những người hết lòng trung thành với Đảng, chỉ biết “còn Đảng, còn mình”.
“Còn Đảng, còn mình” thực chất là đề cao tính lợi ích nhóm sống còn trong hệ thống quyền lực độc tài toàn trị, và lần này ông Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận điều đó.
clip_image006
Công an Nhân dân "chỉ biết còn Đảng, còn mình" được ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.
“Bảo vệ; kiên định; còn Đảng” – là những ngôn từ “Đổi mới II” của Đảng lần này. Và “bạo lực vũ trang” thông qua sử dụng lực lượng Công an và Quân đội trong đảm bảo quyền độc tài chính trị của mình là biện pháp tối ưu mà những nhà lãnh đạo Đảng đang và sẽ nghĩ đến. Nhưng vì mọi sự thay đổi về mặt kinh tế nhằm giảm bức xúc xã hội hơn là thực tâm xây dựng và phát triển quốc gia, nên càng “đổi mới” lại càng “bế tắc”. Bế tắc không thể tiếp tục phá vỡ chính sách “định hướng” như năm 1986 đã khiến Đảng trở về con đường “bạo lực” từ năm 2016 trở đi. 
30 năm tồn tại cầm chừng, chế độ vẫn lung lay, đường lối bế tắc và bạo lực cách mạng đã trở thành một phương án lựa chọn số 1 của Đảng.
M.N.
VNTB gửi BVN
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét